Từ Thú Đến Người

Nguyễn thượng Chánh , dvm

Mots clés : Zoonose

 

Từ thuở khai thiên lập địa , thú và người đã có một mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Thú giúp chúng ta trong việc đồng áng cũng như trong việc chuyển vận được dể dàng. Sữa, trứng và thịt đã nuôi sống con người . Da và len giúp chúng ta có những bộ quần áo để che nắng che sương . Thú cũng được sử dụng trong lĩnh vực y khoa để tìm ra những dược phẫm mới cũng như để sản xuất ra những bộ phận ghép dùng cho con người. Một vài loài súc vật như chó , mèo và ngựa còn được xem như những những bạn đồng hành rất gần gủi với chúng ta trong cuộc sống hằng ngày . Trong bối cảnh này , một số mầm bệnh từ thú có thể lây nhiễm và gây bệnh cho chúng ta . Khoa học gọi những bệnh này bằng 1 cái tên chung là zoonoses .

 

Có tất cả bao nhiêu zoonoses trên thế giới?

 

Theo tài liệu thì có vào khoảng 150 zoonoses . Đa số đều là bệnh nhẹ , nhưng cũng cò một số bệnh rất nguy hiểm có thể làm chết người . Còn nhớ vào năm 1918 cả thế giới đã kinh hoàng trước sự bộc phát nhanh chóng và khốc liệt của dịch cúm Tây Ban Nha (grippe espagnole) . Dịch bệnh xuất phát từ loài heo và đả gieo chết chóc cho khắp cả thế giới . Có trên 20 triệu người đả bỏ mạng vào thời đó . Gần đây hơn một số zoonoses rất nguy hiểm cũng đã trở thành đề tài thời sự của báo chí , chẳng hạn như các bệnh Bò điên BSE , các bệnh sốt xuất huyết EbolaMarburg virus , truyền lây từ việc ăn thịt khỉ bên Phi châu , và bệnh liệt kháng (AIDS ,Sida) từ hơn 20 năm nay đã giết hại hằng triệu người trên thế giới . Có giả thuyết nói rằng mầm bệnh ( HIV ) của bệnh liệt kháng có nguồn gốc cũng từ 1 loài khỉ Phi Châu ngẩu biến và vượt hàng rào chủng loại để lây nhiễm cho người ? Năm 1994, Hendra virus đã xuất hiện bên Úc châu . Virus này từ dơi lây nhiễm cho ngựa rồi từ đó gây bệnh cho người . Triệu chứng như bệnh cảm cúm và có vài ca tử vong bên Úc . Đến năm 1999 , một loại virus mới , đó là Nipah virus cũng xuất phát từ1 loài dơi , lây cho heo và từ đây truyền sang cho người . Bệnh do Nipah virus cũng bắt đầu bằng triệu chứng cảm cúm như đau nhức mình mẩy , sốt cao , và nặng hơn thì gây biến chứng viêm não . Bệnh đã làm thiệt mạng 105 người tại Malaysia năm 1999 . Cũng có những bệnh mà trước kia chỉ có ở các xứ nóng , nay thì bắt đầu thấy xuất hiện ở Bắc Mỹ , như bệnh West Nile virus lần đầu tiên đựoc phát hiện tại New York vào năm 1999 . Đây là bệnh của 1 số loài chim , đặc biệt là loài quạ , và được muỗi làm trung gian lây truyền cho người . Bệnh thường xuất hiện mỗi năm vào khoảng từ tháng 5 đến tháng 9 là thời gian có nhiều muỗi tại Bắc Mỹ . Bệnh West Nile virus có triệu chứng như cảm cúm , ít khi gây thiệt hại về nhân mạng nhưng nó cũng làm bận rộn giới y tế công cộng Hoa Kỳ và Canada không ít . Bệnh có thể gây biến chứng nguy hiểm ở các người già cả lớn tuổi . Vùng New York , New England ở miền đông bắc Hoa Kỳ củng như 1 số vùng Ontario và Quebec Canada thường được cảnh báo về sự xuất hiện của bệnh West Nile virus vào mổi năm . Tháng 3, 2003 bệnh viêm phổi cấp tính và trầm trọng (SARS ) xuất phát từ lục địa Trung Quốc đã làm thiệt mạng trên 800 người trên thế giới , nặng nhất là Trung Quốc có khoảng 350 nạn nhân , kế đến là Hồng Kong, Đài Loan và 1 số quốc gia vùng Đông nam Á trong đó có Việt Nam . . Riêng tại Toronto,Canada tính đến tháng 7 năm 2003 cũng đã có 44 tử vong vì bệnh SARS . Tác nhân của bệnh SARS là 1 loại Corona virus ngẩu biến đặc biệt . Các nhà khoa học đã đưa ra giải thuyết ,có lẽ bệnh có nguồn gốc từ 1 loại thú rừng nào đó, hình như là từ con cầy hương (civet cat) mà người Trung Quốc rất hẩu xực ? Dịch bệnh này đả làm cả thế giới rất lo ngại ,và nó cũng đã gây thiệt hại một cách đáng kể cho kỹ nghệ du lịch của rất nhiều quốc gia. Vào đầu năm 2004 , bệnh dịch cúm gà do virus Influenza H5N1 đã bộc phát ra 1 cách nhanh chóng tại Á Châu . Đây là gốc virus rất độc hại và rất nguy hiểm nhất trong tất cả chủng Influenza virus , vì nó giết hại nhanh chống hầu như 100 % gia cầm và cũng có thể lây nhiễm cho cả những người nào có tiếp xúc chặt chẻ với gà bệnh Tại Việt Nam cũng đã có trên 30 người chết vì dịch cúm gà kể từ dầu năm 2004 . Người ta chưa có bằng chứng khoa học nào chắc chắn cho thấy có sự lây nhiễm trực tiếp virus H5N1 giửa người với người với nhau , nhưng Tổ chức Y Tế Thế Giới rất lo ngại sự kiện này có thể xảy ra trong tương lai, và lúc đó bệnh dịch cúm sẽ trở nên toàn cầu (pandémie), rất khó mà khống chế được .

 

Zoonose gây bệnh bằng cách nào ? 

Máu, nước bọt , phân, nước tiểu, tiết vật , da , lông, thịt, sữa và trứng của súc vật đều có thể là nguồn lây nhiễm cho con người . Thời tiết , khí hậu và điều kiện thiên nhiên cũng ảnh hưỡng rất nhiều đến sự xuất hiện của một zoonose . Có những bệnh chỉ tác hại ở các vùng nhiệt đới nóng và ẫm, nhưng cũng có bệnh chỉ thấy xảy ra ở vùng ôn đới mà thôi . Sâu bọ côn trùng , ruồi, muỗi, ve , bọ chét và chim chóc đều có thể là trung gian (vecteur) đem mầm bệnh từ thú sang lây nhiễm cho người . Mật độ thú quá cao trong một vùng nhất định nào đó , việc khai phá rừng , và sự lưu thông chuyễn vận quá dể dàng đều là những yếu tố thuận lợi để một zoonose có thể xuất hiện nhanh chóng . Cuối cùng là cách sinh sống của con người, chẳng hạn như sống chung chạ với gia súc, tập quán ăn uống, như ăn thịt sống, thịt tái, bò tái chanh, tiết canh, nem , và saucisse khô vv…cũng có thể dự phần không nhỏ vào sự xuất hiện của bệnh tật .

 

Một số zoonoses điển hình 

1. Bệnh Salmonellose : còn được gọi là bệnh thương hàn , do vi khuẩn Salmonella spp. Gây ra . Phân của gia súc, , vịt, chim , rùa , rắn vv… đều có thể chứa vi khuẩn Salmonella spp. Có rất nhiều nguyên nhân bị nhiễm bệnh , như không giử vệ sinh , không rửa tay kỹ trước khi ăn uống , ăn phải thực phẩm nhiễm trùng nấu không thật chín . Thịt gà là loại thịt thường hay bị nhiễm Salmonella nhất. Trứng gà cũng có thể bị nhiễm loại vi khuẩn này, vì vậy không nên ăn hột gà nửa sống nửa chín kiểu hột gà "la cót" . Một số thú vật có thể mang mầm bệnh nhưng chúng không bị bệnh nhưng lại thải vi khuẩn Salmonella ra ngoài để lây nhiễm chúng ta . Đây là những ổ bệnh ( réservoir, porteur , carrier) rất nguy hiểm cho sức khỏe công cộng .Đau bụng, tiêu chảy có thể có máu, và sốt nóng là những triệu chứng chính . Bệnh có thể rất trầm trọng ở các cháu bé và ở các cụ cao tuổi . Để phòng ngừa, chúng ta phải giử vệ sinh tối đa như nhớ mang bao tay lúc quét dọn chuồng trại , và lúc hốt phân súc vật . Chùi rửa thường xuyên nơi nhốt thú và chim . Rửa tay sau khi làm việc. Tránh dùng thịt nấu không được thật chín .

2. Bệnh Campylobactériose : vi khuẩn Campylobacter jejuni là thủ phạm chính . Phân gia súc có thể chứa vi khuẩn này và nhiễm vào nguồn nước, vào rau cãi và thứa ăn . Ăn phải thức ăn bẩn chúng ta sẽ bị đau bụng và tiêu chảy . Bệnh Salmonellose và bệnh Campylobactériose là 2 bệnh thường hay gặp trong vấn đề ngộ độc thực phẩm.

3. Bệnh Psittacose : do vi khuẩn Chlamydia psittaci gây nên . Két là loài chim thường mang bệnh Psittacose nhất . Ngoài két ra , bồ câu và gà cũng có thể mắc bệnh . Bụi bặm trong lông chim, các tiết vật từ mỏ hay từ mũi chim két đều có thể chứa vi khuẩn Chlamydia . Chúng ta bị lây bệnh qua việc hít thở bụi bặm từ lồng két . Triệu chứng tương tợ bệnh cãm cúm , ho hen, nóng lạnh , nhức đầu ,ói mửa, tiêu chảy ... Bệnh có thể rất nặng ở các người lớn tuổi .

4. Bệnh Toxoplasmose : do loại nguyên sinh vật ( protozoa) Toxoplasma gondii gây ra . Mầm bệnh thường hiện diện trong phân mèo và từ đó lây nhiễm cho chúng ta qua ngỏ tiêu hóa . Triệu chứng là sốt nóng, các hạch sưng phù lên và có thể có biến chứng viêm não . Bệnh rất quan trọng ở các phụ nữ đang mang thai , có thể gây ra thai dị dạng hoặc làm xảo thai . Để phòng ngừa, nhớ mang bao tay lúc làm vườn , cũng như lúc quét dọn phân mèo . Rửa kỹ lưỡng rau cãi, thịt phải được nấu thật chín mới được dùng .

5. Bệnh do Hanta virus : Phân chuột chứa nhiều loại virus này . Người bị nhiễm qua ngỏ tiêu hóa . Sốt nóng, nhức đầu, đau nhức các bắp cơ tương tợ như bị cảm cúm vậy . Cẩn thận lúc quét dọn các hốc kẹt có chứa phân chuột. Nhớ rửa tay kỹ sau khi xong việc .

6. Bệnh dại ( rage, rabies) : tác nhân là Lyssa virus . Tại Canada , bệnh dại lây nhiễm từ chó và mèo rất ít thấy , hầu như không có , lý do chính là vì các loài vật nầy đều được chủng ngừa dại . Luật cũng cấm thả chó chạy rong ngoài đường phố nhờ vậy mà giãm thiểu phần nào hiện tượng lây nhiễm bệnh dại . Tuy vậy bệnh dại thỉnh thoảng vẩn thấy xảy ra ở người mà nguyên nhân do lây nhiễm từ thú rừng có mang sẳn mầm bệnh bệnh dại 1 cách tự nhiên . Tại Bắc Mỹ , các loài thú sau đây thường hay chứa virus bệnh dại nhất : chồn ( renard, fox) , chồn hôi? (mouffette , skunk), gấu trúc Mỹ ? (raton laveur, raccoon),dơi ( chauve souris, bat). Bên Âu Châu , chồn là loài vật thường hay mang bệnh dại nhất . Bệnh dại là 1 bệnh cực kỳ nguy hiễm, lây nhiễm từ nước bọt thú có mang mầm bệnh. Virus bệnh dại tấn công vào hệ thần kinh trung ương của nạn nhân và thường gây tử vong nếu không chửa trị sớm và kịp thời . Một khi triệu chứng đã phát hiện ra rồi thì kể như phải chết .

7. Bệnh sốt do mèo quào ( maladie des griffes du chat, cat scratch fever) : móng mèo rất bẩn và thường chứa vi khuẩn Bartonella . Vết thương do mèo quào dể bị nhiễm trùng và gây sốt nóng .

8. Bệnh do ký sinh trùng Giardia và Cryptosporum : Hai loại ký sinh trùng nầy nằm trong nhóm nguyên sinh vật (protozoa) . Gia súc có thể mang mầm bệnh nhưng không bị bệnh . Ký sinh trùng được thải qua phân, và nhiễm vào nguồn nước và thức ăn . Đau bụng và tiêu chảy là biểu lộ chính của bệnh . Để ngừa bệnh, cần nên giử gìn vệ sinh , rửa tay kỹ lưỡng sau khi tiếp xúc với thú vật , rửa kỹ rau cãi trước khi dùng ,cũng như cần đun sôi nước trước khi uống .

9. Bệnh lác ( teigne, ringworm ) : do nấm ký sinh Microsporum gây nên. Gia súc, chó, mèo ,bò , ngựa đều có thể mang loại nấm nầy trên da , gây ngứa ngáy khó chịu . Một số mèo có thể bị nhiễm nấm Microsporum nhưng không biểu lộ ra triệu chứng bên ngoài . Tiếp xúc với những loài vật bệnh chúng ta có thể bị lây nhiễm .

10. Bệnh Leptospirose : do vi khuẩn Leptospira spp ( còn gọi là xoắn trùng ) gây ra. Các loại thú rừng , các loài gặm nhấm như chuột , chó , mèo heo bò và ngựa đều có thể là ổ bệnh . Chúng không bệnh , nhưng có thể thải mầm bệnh qua nước tiểu và lây nhiễm cho chúng ta . Leptospirose là bệnh quan trọng ở vùng Á Châu và Nam Mỹ . Xoắn trùng có thể xuyên qua da, nhất là những nơi bị xây xát sẳn để vào trong cơ thể . Chúng cũng có thể xâm nhập qua ngỏ niêm mạc mắt , mũi, họng vv…Triệu chứng ban đầu như cãm cúm, đau nhức cơ, nôn mữa , sau đó thì gan bị tổn thương gây nên tình trạng vàng da , kế đến là hư thận và cũng có thể có biến chứng viêm màng não . 

Có tin vài năm trước đây ,Việt Nam có cho nhập cảng giống hải ly ( castor, beaver ) từ Trung Quốc về nuôi . Đây là giống Myocastor coypus khác họ với castor Canada ( Castor canadensis ) và với castor Âu châu ( Castor fiber ) . Giới y tế và thú y Vn , qua xét nghiệm bằng phương pháp huyết thanh học đã cho biết rất nhiều hải ly nhập cảng có kết quả dương tính với xoắn trùng Leptospira . Ngoài sự kiện vừa kể , hải ly còn được xếp trong danh sách 100 loài vật xâm hại nguy hiểm nhất trên thế giới .

11. Bệnh Tularemie : do vi khuẩn Pasteurella tularensis ( tên củ ) , từ 1974 tên được đổi lại là Francisella turalensis . Các thú rừng như thỏ, sóc , chuột , chồn , heo rừng vv… đều có thể là ổ bệnh có mang vi khuẩn nói trên. Đây là 1 bệnh truyền nhiễm có thể gây chết người ( 35%) nếu không chửa trị đúng cách và kịp thời . Bệnh được lây nhiễm từ các tiết vật, từ phân của thú bệnh qua việc hít thở hoặc qua ngỏ tiêu hóa, hoặc lúc sờ mó xác thú vật chết vì bệnh tularemie. Muỗi , và mồng có thể là trung gian lây bệnh cho người . Nạn nhân thường là các thợ săn trong rừng . Triệu chứng thường thấy là sốt nóng, nhức đầu , đau khớp , hạch sưng to , ho, khó thở, viêm phổi nặng ,đau bụng , ói mữa vv… Để phòng ngừa, tránh sờ mó thú rừng , xác thú , thịt và nước cần được nấu thật chín . Cơ quan CDC (Centers for Disease Control and Prevention ) Hoa Kỳ đã xếp vi khuẩn bệnh Tularemie vào nhóm vủ khí khủng bố sinh học (bioterrorisme).Vào những năm 50 và 60 , Hoa Kỳ đã từng thí nghiệm vi khuẩn bệnh tularemie như 1 vủ khí sinh học của họ .

12. Bệnh giun lãi của chó và mèo : ToxocaraAnkylostoma là tên 2 loài giun thường hay gặp ở chó và mèo . Trên 80 % chó con từ 2 đến 4 tháng tuổi thường bị nhiễm giun Toxocara . Trứng ký sinh trùng này có thể lây qua người qua ngỏ miệng . Vào ruột, trứng chỉ nở ra ấu trùng ( larve) mà thôi . Ấu trùng chui qua ruột vào trong máu để đi đến phổi, tim, nhản cầu và cả trong hệ thần kinh trung ương của chúng ta . Thật là nguy hiểm . Ankylostoma , là tên 1 lại giun khác cũng không kém phần nguy hiểm vì chúng có móc nhọn ở miệng để bám vào niêm mạc ruột mà hút máu . Người ta còn gọi chúng là giun móc ( ver à crochet, hookworm ) . Trong đất trứng giun Ankylostoma nở ra thành ấu trùng và nằm đó để chờ dịp chui qua da của nạn nhân . Ấu trùng di chuyển tứ tung trong cơ thể nên được gọi là larvae migrans . Theo đường tỉnh mạch ấu trùng xâm nhập các phế nang của phổi , rồi trở ra vùng yết hầu và thực quản và bị nuốt xuống bụng . Tại đây chúng sẽ trưỡng thành, bám vào ruột để hút máu và đẻ trứng . Các cháu bé bò dưới đất ,ham đút tay vào miệng có thể bị nhiễm loại giun này . Tại những nơi ấu trùng xâm nhập, da thường hay bị ngứa ngáy, nổi đỏ, bị nhiễm độc, chảy nước vàng và lở loét . Thường thấy nhất là vùng chân, vùng bàn tay và cánh tay . Bệnh nhân có thể bị ho có đàm, nôn mữa, tiêu chảy có máu . Lâu ngày thì có triệu chứng bị mất máu . Để ngừa, nên cho chó mèo xổ lãi thường xuyên , chùi rửa sàn nhà ,tránh đừng cho các cháu đút tay vào miệng . Giun Ankylostoma rất phổ biến tại các vùng nhiệt đới , nóng và ẫm như Việt Nam . Đi chân không tại những vùng đất ẫm có thể nguy hiễm vì ấu trùng Ankylostoma có thể xuyên qua da để vào cơ thể .

 

Các bệnh ký sinh trùng trong thịt .

CYSTICERCOSE là tên chung để gọi một loại bệnh ký sinh trong thịt heo và trong thịt bò. Thịt bệnh có những nang ( kyste, cyst) nhỏ trong đó có chứa 1 cái đầu (scolex) của con sên (hay sán dây ) ở giai đoạn ấu trùng ( larvae) . Ở HEO, người ta thường gọi là thịt heo gạo . Ăn thịt heo gạo nấu không thật chín , ấu trùng sẽ nở ra thành sên trưỡng thành , có tên là Taenia solium và chỉ có 1 con duy nhất dài từ 2 đến 7 mét nằm trong ruột chúng ta cả hằng chục năm . Người là ký chũ thật sự ( hôte définitif), heo là ký chủ trung gian ( hôte intermédiaire ) của sên Taenia solium

Khi phóng uế, một số đốt (như mắt xích xe đạp )của ký sinh trùng theo phân ra ngoài . Các đốt này đều chứa đầy trứng sên . Thả heo đi ăn bên ngoài cũng như việc sử dụng phân người để trồng trọt là nguyên nhân chính của bệnh heo gạo . Heo ăn bẩn , trứng sên vào trong ruột nở ra thành ấu trùng , xuyên màng ruột đi định vị trong thịt heo dưới dạng những nang nho nhỏ như hạt gạo và có màu trắng trong , khoa học gọi là cysticercus cellulosae . Trường hợp chúng ta ăn nhầm rau cãi bẩn có trứng sên thì sao ? Trường hợp này , trứng chỉ nở ra thành ấu trùng sên trong ruột của ta nhưng không bao giờ nở ra thành con sên trưỡng thành được . Sau đó ấu trùng đi tứ tung trong cơ thể để tìm nơi định vị dưới hình thức những nang nhỏ , khoa học gọi bệnh này là cysticercose humaine . Nếu kết nang trong hệ thần kinh trung ương chẳng hạn như não hoặc tủy sống thì gọi là bệnh neurocysticercose , rất nguy hiễm . 

 Tại Canada không thấy có báo cáo về heo gạo . Có lẻ đây cũng nhờ vào việc heo chỉ được nuôi trong chuồng , mà không thả ra ngoài đồng cỏ để ăn bẩn, ngoài ra cũng nhờ vào việc luật Canada cấm chỉ vấn đề sử dụng phân người trong canh nông . Ở BÒ, cũng có trường hợp tương tự như heo, Thịt bò có thể chứa những nang nhỏ ấu trùng của loại sên Taenia saginata . Sên trưỡng thành sống trong ruột của chúng ta (người là ký chủ thật sự ) trong nhiều năm , và có thể có nhiều con cùng một lúc , dài từ 4- 12 mét . Mổi khi phóng uế, một số đốt sên chứa đầy trứng theo phân ra ngoài và nhiễm vào môi sinh , và cây cỏ . Bò ( ký chủ trung gian) ăn cỏ , trứng sên sẽ nở ra thành ấu trùng trong ruột , sau đó chúng xuyên qua ruột đến kết nang trong các vùng như các bắp thịt, hoành cách mô , tim , lưởi vv…Tại Canada, trong công việc khám thịt hằng ngày, thỉnh thoảng tác giả cũng có phát hiện thịt bò bị nhiễm nang ấu trùng sên Taenia saginata

Tại sao ? Chúng ta chỉ đoán là có thể có anh Ca Na Điên nào đó trong lúc đi du lịch Á châu hoặc Nam Mỹ , bị nhiễm bệnh vì đã ăn thịt bò bít tết chiên không đủ chín, hoặc anh ta có ghé Việt nam làm vài tô phở tái béo kèm theo 1 dĩa bò tái chanh , mà xui xẻo cho Anh ta là thịt đã được làm từ bò có ký sinh trùng Taenia saginata . Trở qua Canada , 1 ngày nọ trong lúc làm việc ở nông trại , anh ta cãm thấy đau bụng quá , thay vì chạy đi tìm w.c anh ta liền giải quyết bầu tâm sự 1 cách cấp bách ngay tại chổ trong chuồng bò . Bò bị nhiễm trứng sên vì lẻ đó . Tại Canada , thịt bò chứa nang sên sẽ bị giử lại tại nhà máy để làm đông lạnh ở nhiệt độ trừ 20 độ C trong vòng 10 ngày để diệt hết ký sinh trùng . Cách đề phòng tốt nhất vẩn là chỉ nên ăn thịt bò đã được nấu hoặc chiên cho thật chín mà thôi .

 

TRICHINOSE , cũng là một bệnh ký sinh rất quan trọng trong thịt , gây nên bởi giun ( lãi) Trichinella spiralis

Một số gia súc như chó, mèo , heo, ngựa , cũng như 1 số thú rừng như chuột, chồn , gấu vv…đều có thể bị bệnh trichinose . Ấu trùng nằm cuộn tròn trong những nang nhỏ trong thịt . Không thể thấy bằng mắt thường được . Heo bị nhiễm bệnh do ăn phải các thức ăn bẩn , hoặc ăn nhầm xác chuột có chứa ký sinh trùng . Ăn phải thịt heo bệnh, nếu nấu không thật chín , chúng ta sẽ bị bệnh trichinose . Chất acide trong bao tử sẽ làm tan các vỏ nang và giải phóng ấu trùng Trichinella spiralis ra ngoài .Nếu bị nhiễm nhẹ thì không thấy có triệu chứng gì cả . Nếu khá nặng, bệnh nhân sẽ bị mệt mỏi, đau nhức các bắp thịt và các khớp xương, mí mắt sưng phù và có thể nhức nhối trong con mắt . Trường hợp nặng hơn nửa thì có thể có biến chứng tim và não . 

Tại Canada , mỗi năm có vài chục người chết vì bệnh Trichinose . Đa số đều là các người Indien và dân thiểu số Esquimaux ở vùng North West Territories phía cực Bắc của lảnh thổ . Có lẻ tập tục ăn sống thịt thú rừng, như thịt gấu chẳng hạn là nguyên nhân chính để làm cho họ dể nhiễm bệnh . Ngoài thú rừng ra, còn có1loài động vật khác khá to màu đen, đó là con sư tử biển ( morse, sea lion) ở vùng Bắc cực cũng cho thấy có tỉ lệ nhiễm bệnh Trichinose rất cao . Từ 1983 đến nay Canada chỉ phát hiện ra được có 3 ca thịt heo bị nhiễm ký sinh trùng Trichinella spiralis mà thôi . Riêng năm 2001, trên 18 triệu heo ( kể cả heo rừng nuôi) đã được hạ thịt. Các test thử nghiệm bằng phương pháp huyết thanh học đều không tìm thấy có sự hiện diện của bệnh Trichinose ở số thú này . Tất cả ngựa hạ thịt tại Canada đều phải được th? nghiệm bệnh Trichinose tại lò sát sinh , không sót 1 con. Đây là điều kiện yêu bắt buộc của khối Liên Hiệp Âu châu để Canada có thể xuất cảng thịt qua các quốc gia bên đó . Phương pháp thử nghiệm là phương pháp dùng enzyme để tiêu hóa mẩu thịt ( digestion enzymatique ) ,và sau đó ký sinh trùng được xét tìm dưới kính phóng đại đặc biệt . Từ trước tới nay tất cả thử nghiệm đều không tìm thấy có sự hiện diện của loại ký sinh trùng Trichinella trong thịt ngựa sản xuất tại Canada .

Phương pháp phòng ngừa tốt nhất vẩn là chúng ta chỉ nên ăn bất cứ các loại thịt sau khi đã được nấu , nướng cho thật chín mà thôi .

Kết luận

Cũng may là đa số bệnh của thú vật ít khi lây nhiễm đến chúng ta . Tuy vậy , gần đây một số virus đặc thù của các bệnh ở thú đã làm cho các nhà khoa học hết sức lo ngại bởi lẽ chúng rất khó bị tiêu diệt được cũng nhu chúng có khả năng ngẫu biến (mutation) và thích nghi dễ dàng vào môi trường mới và từ đó sẽ vượt hàng rào chủng loại ( barrière d’espèce ) để lây nhiễm sang cho người . Zoonose càng ngày càng gây nhiều lo sợ cho cộng đồng nhân loại . Phương pháp chăn nuôi công nghiệp , rất thâm canh với quá nhiều súc vật trên những diện tích nhỏ hẹp đã tạo nên điều kiện cho bệnh dể phát triển ra . Sư khai phá rừng một cách quy mô và bừa bãi đã làm cho thú vật mất môi trường sống , bắt buộc chúng phải lân la về những nơi đông dân cư để tìm ăn và đồng thời truyền lây bệnh tật cho con người . Ngày nay , đồng thời với sự phát triển và bành trướng của ngành giao thông vận tãi , mầm bệnh có thể theo du khách và hàng hóa đi chu du khắp thế giới một cách nhanh chóng và dể dàng . Có phải chăng sự bộc phát của zoonose là cái giá mà con người phải trả cho các tiến bộ khoa học mà chúng ta đang thụ hưởng ?

 

Montreal , May 14, 2005