Tôi học trường Tây

(Riêng tặng các bạn DL xuất than từ Blaise Pascal Đà Nẵng)

HồVănHiền 

Mấy chục năm sau khi rời mái trường trung học Pháp ở Đà nẵng, mới gần đây đọc báo điện tử ở Việt nam, tôi lại thấy nay phong trào cho con đi học “trường tây” lại bộc phát dữ dội. Qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu ý thức hệ đổi dời, giờ đây ở Việt nam, từ giới không mấy giàu cho đến giới làm ăn ra tiền, thiên hạ có vẻ đang chen nhau thắt lưng buộc bụng để con mình được vào một trong những trường có chương trình không phải là chương trình căn bản của nhà nước, học trình dạy bằng tiếng ngoại quốc (Anh, Pháp, Nhật..), rất đắt tiền (dù so với giá cả ở Mỹ). Một số lý do cha mẹ nêu lên là: chương trình ít từ chương và nhồi sọ hơn, trẻ được học tánh tự lập, học nhiều môn cần thiết cho đời sống mới thực tế như biết tranh luận, biết dùng máy vi tính (computer), biết tự mình khảo cứu một vấn đề, biết nói ngoại ngữ lưu loát , được học thể dục thể thao tốt hơn, học sinh không bị áp lực phại học thêm ngoài giờ,về nhà cha mẹ khỏi mướn thêm để dạy kềm.. Ở mức đại học, các trường hoặc chương trình  do Úc (Royal Melbourne Institute of Technology/RMIT), Pháp (kết quả của cuộc viếng thăm của Tổng thống Pháp), Mỹ (đại học Roger Williams ở bang Rhodes Island) bắt đầu nở rộ lên. Ngay tại đại học của chính phủ Việt nam, một số chương trình được xếp là tiên tiến cho sinh viên ưu tú có thể sẽ dạy luôn bằng tiếng Anh và nếu dùng tiếng Việt thì sẽ dịch “nguyên con” giáo trình của các đại học ngoại quốc có uy tín. Tại Đại học Duy Tân ở   Đà nẵng chẳng hạn, các giáo sư, nhân viên. còn được khuyến khích dùng Anh ngữ trong sinh hoạt giao tiếp hàng ngày cho quen.

Thì ra, lúc tóc đã bạc đầu, tính đi tính lại, thấy bố mẹ mình hồi xưa xem ra cũng ...có lý ; mặc dù hồi đó đôi lúc mình thấy có nhiều điều không ổn lắm.

Tôi vào trường College Francais de Tourane (Đà nẵng) lúc tôi mới mười tuổi. Nhà tôi ở Huế, phải đi “taxi” (hồi đó những xe traction cũ, hiệu Citroen, chở cả 14-15 người đi từ Huế vào Đà nẵng gọi là xe taxi). Tôi vừa học xong tiểu học trường Việt, chỉ từng thấy những người Pháp quen với ba tôi lại nhà chơi ở trên lầu, vốn liếng tiếng Pháp của tôi chỉ gồm một số ngữ vựng (vocabulaire) nhờ ba tôi và các anh chị bắt học thuộc lòng từ hồi năm sáu tuổi gì đó. Về phần đàm thoại thì có lẽ... khỏi nói, thời đó chẳng ai dạy con nít đàm thoại, và thêm nữa đọc tiếng Pháp theo giọng Huế chắc cũng hơi tội nghiệp cho người Pháp.

Ở Mỹ hiện nay, về giáo dục con nít, người ta thường coi việc đưa một đứa nhỏ ra khỏi môi trường văn hóa gốc của nó (như con nít Mỹ đen mà đem cho cha mẹ Mỹ trắng làm con nuôi, hoặc bắt trẻ Da Đỏ thờ cúng ông bà đi học trường đạo tin lành của Mỹ trắng) là một điều cấm kỵ. Nhiều khi sau này còn bị kiện như trường hợp những người Da Đỏ ở Canada kiện  các bà xơ từng tập trung chúng về trường “ép buộc” biến thành người da trắng. Sau này, lcó lần đọc một bài báo của Thế Uyên gọi dân trường Tây là “les déraciniens”, tôi nhớ mình cũng hơi áy náy vì “mặc cảm tội lỗi”. Nhưng, như đã nói ở trên, mình vẫn. ..không sao, vẫn trả nợ nước như mọi người trước khi buộc phải xa xứ. Bây giờ, hình như lại rất nhiều người ở Việt nam còn muốn con cái được như mình hồi xưa (đi học trường Tây), với một cái giá cắt cổ hơn nhiều, vậy xem ra dưới mặt trời cũng không có gì là lạ, và nghĩ lại, thật biết ơn cha mẹ mình đã hy sinh rất nhiều cho con cái.

Dù sao thì hồi đó tôi cũng có khi hãnh diện là mình học trường Tây. Đầu năm học, được đi lảnh sách Pháp chở đầy một xe xích lô, sách bìa cứng, in màu, đẹp, trong lúc sách giáo khoa tiếng Việt hồi đó còn ít ỏi. Trong lúc các trẻ khác nghỉ hè, nghỉ Tết theo cuộc sống ở Việt nam thì mình nghỉ Noel và Tết tây kéo dài. Phục sinh ai cũng đi học cả thì mình được nghỉ đến hai tuần, và nghỉ hè thì cũng theo những học trò ở bên Pháp, trong lúc các bạn ở Việt nam còn đi học. Ai có ngạc nhiên tại sao mình đi chơi trong lúc trẻ khác đi học thì nghiễm nhiên trả lời “tui học trường college”. Một phần vì ở nội trú, xa cách nếp sống điển hình của gia đình Việt nam, một phần vì chương trình học gần như hoàn toàn là của Pháp, dần dần mình trở thành dân trường tây “thứ thiệt” mà không hay !

Lúc đầu, học lớp chuyển tiếp septìeme spéciale, mỗi lần nói một câu xin thầy Marcon đi phòng vệ sinh (“permettez moi d’aller..)  cả một đắn đo, tính toán ghê gớm cho một đứa trẻ chưa bao giờ ra khỏi nhà cha mẹ và bắt buộc "lội" trong một thứ tiếng hoàn toàn mới lạ. Trong lúc đó thì những bạn cùng lớp chương trình chính thống (serie moderne) theo học trường tây từ thời vườn trẻ (jardin d’enfants) lại đứng lên đọc các théorème như gió, buồn cho phận mình không biết bao giờ mới nói tiếng Tây cho lưu lóat được. Ngược lại, sau một thời gian đã “quen nước quen cái”, lúc cần diễn tả một đề tài nào đó bằng tiếng Việt thì lại phải chêm tiếng Pháp, như “làm composition, học sciences, ăn gouter.”.... không khác gì trẻ con chúng tôi ở Mỹ hiện nay pha trộn tiếng Anh vào tiếng Việt rất nhiều.

Mà cũng khó thật, nhất là bây giờ chứng kiến cách các trẻ em Việt nam tại Mỹ hội nhập một cách nhanh chóng vào xã hội Mỹ. Chúng dùng tiếng Anh trong lớp đã đành, mọi sịnh hoạt khác đều là trong một xã hội Anh ngữ, từ đi chợ, vào tiệm ăn, đọc tờ báo, lại thêm các phương tiện truyền thông thính thị (audio,video) tạo thành một sự “đắm mình” (immersion) thật sự trong Anh ngữ cho nên chúng “bắt” được tiếng Anh thật nhanh. Chúng tôi hồi đó thì khác hẳn, trường tây thì chỉ tây ở lớp thôi, vì ở nội trú nên chúng tôi mất hẳn sự hổ trợ của một nếp sống gia đình Việt nam bình thường, thiếu tác động về ngôn ngữ, tinh thần và tâm linh của một cuộc sống của một đứa trẻ trong một gia đình bình thường. Nói một cách khác, thật sự chúng tôi một phần nào trở thành những kẻ xa lạ trên chính quê hương mình, bị tha hóa về văn hóa. Như trường hợp Lý Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore, trong cuốn hồi ký  nhận xét về chính bản thân ông, xuất thân từ trường của người Anh và áy náy thấy mình xa lạ với văn hóa người Tàu.

Thât sự thì vấn đề “tha hóa” của tôi cũng chỉ tạm thời thôi, vì sau đó, dù muốn dù không, giống như tất cả thanh niên thời đó chúng tôi sẽ phải dấn thân vào thời cuộc xã hội Việt nam đang đợi ngoài cổng trường Tây của mình. Đến lúc đó những hành trang mang theo từ trường Tây lại trở nên vô cùng quí giá trong cuộc sống .

Chương trình trường Tây là một cánh cửa mở rộng vào thế giới hồi đó. Ngay lúc còn ở Việt nam, dù xấu dù tốt, hay hay dở, chúng ta vẫn có một cách nhìn đời hơi “Tây”. Sách vở bằng tiếng Việt vào những năm 1960 vẫn còn ít ỏi, trong lãnh vực khoa học cũng như văn học. Một số bài trong báo Văn học mà tôi tìm đọc hồi đó cũng có vẻ như viết theo văn phạm, cú pháp (syntax) Pháp và còn giống văn dịch từ tiếng Pháp. Ngay những lúc mà các nhân vật lãnh đạo như Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Ông Bà Ngô Đình Nhu và Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ cố gắng ngoài mặt xoá bỏ những dấu vết của cái gọi là văn hóa thực dân, chính bản thân họ cũng hãnh diện ra mặt là mình nói tiếng Pháp và được đào tạo trong lòng văn hóa Pháp.

Lúc tôi tốt nghiệp trung học, trường đại học khoa học đã dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ , tuy nhiên kỳ thi vào y khoa vẫn cho phép viết bằng tiếng Pháp. Từ năm y khoa đầu tiên trở đi, các bài giảng đều bằng tiếng Pháp, cho đến mấy năm sau thì các cuộc tranh đấu của sinh viên mới đổi chuyển ngữ thành tiếng Việt ; tuy nhiên sách vở vẫn bằng tiếng Pháp (hoặc tiếng Anh do cố gắng của người Mỹ bán sách Mỹ thật rẻ nhờ tài trợ), các hồ sơ bịnh lý trong nhà thương vẫn còn viết bằng tiếng Pháp cho đến lúc tôi ra trường. Nhớ lại ngày xưa, thật là một chế độ rất bất công cho những bạn học từ trường Việt nam, và thật là một sự ưu đãi lớn cho những người học trường Tây.

Hồi đó, tôi may mắn được tuyển chọn vào xá sinh viên Đắc lộ ở 161 đường Yên Đổ Sàigòn. Cha giám đốc cư xá Henri Forest là một linh mục Dòng Tên (Jésuite) người Canada nói tiếng Pháp và tiếng Anh nhưng không nói được tiếng Việt. Cha Forest muốn những năm tháng người sinh viên sống trong cư xá còn là một quá trình học tập và đào tạo. Mục đích, tôn chỉ là Esto vir: Hảy nên người.

Cha Forest muốn đào tạo một thế hệ trẻ trí thức Việt nam có thả năng lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm. Ông muốn giúp cho người sinh viên Việt nam tiếp xúc với xã hội bên ngoài tháp ngà đại học cũng như tiếp cận với thế giới bên ngoài xã hội chiến tranh hạn hẹp của nước Việt nam chúng ta thời bấy giờ. Tiếng Pháp được dùng làm chuyển ngữ trong những sinh hoạt có tính cách giáo dục đó : các buổi họp, các buổi thuyết trình đều bằng tiếng Pháp, sau này chỉ một số buổi họp của ban đại diện được dùng tiếng Việt theo quyết định của đa số và cho”hợp thời” hơn. Ngoài ra còn có những tuần tiếng Pháp, tuần tiếng Anh lúc mà chúng tôi chỉ được phép dùng một ngoại ngữ nào đó trong mọi hoạt động của đời sống hàng ngày , nếu bất tuân sẽ bị ..phạt (tượng trưng).

Một lần nữa, tôi lại được mở một cái cửa sổ thứ hai để nhìn vào thế giới phuơng Tây và thế giới tiến bộ nói chung. Đối với tôi, cư xá Đắc lộ không những là trường đại học thứ hai (và đúng nghĩa Đại học hơn cả trường y khoa của tôi) mà còn là trường Tây thứ nhì của tôi. Những năm tháng ở Cư xá Đắc lộ chuẩn bị cho tôi cuộc sống sau này trong  thế giới hiện đại mà phương Tây đang dẫn đầu trong mọi lãnh vực từ khoa học cho đến văn hoá , nghệ thuật.

 Sau khi phải bỏ xứ ra nước ngoài, trong thế giới càng ngày càng thu nhỏ lại, càng “toàn cầu hóa” trong những năm gần đây, cái nhìn theo “Tây” đó tỏ ra rất hữu ích cho cuộc sống hiện nay. Ngoài ra, sự hiểu biết sẳn có về tiếng Pháp giúp ích thật nhiều cho người di dân cần học tiếng Anh. Nhìn lại tôi càng thấy biết ơn những vị thầy của chúng ta đã từ xa nghìn dặm, đem đến cho đất nước nhỏ bé của chúng ta những kiến thức khoa học mới mẻ, những nét đẹp của văn chương tây phương, những tư tưởng phóng khóang của khoảng giữa thế kỷ thứ hai mươi.

Mấy mươi năm sau, tình hình thay đổi hẳn. Tôi đang sống trong xã hội Mỹ và tiếng Anh trở thành gần như một phản xạ (tuy lắm khi phản xạ chậm hoặc sai). Còn tiếng Pháp thì sao ? Mấy năm trước đây, tôi xúc động được đặt chân đến Paris lần đầu tiên trong đời. Con tôi vẫn biết tôi học “trường Tây” nên tôi phải cố gắng đánh bạo lòe chúng, nói vài câu tiếng Pháp với người lái taxi. Anh ta tưởng tôi là người Nhật và hỏi tôi học tiếng Pháp ở đâu. Tôi cũng mừng vì người tài xế là “Tây thứ thiệt’ còn hiểu được mình nói gì. Nhưng tiếng Pháp của tôi chỉ còn chừng đó thôi, tôi cố gắng nói thêm vài lần nữa với vài người Pháp ở phi trường, nhưng họ cũng nhân đạo, trả lời tôi bằng tiếng Anh !

Nghĩ cho cùng, học trường Tây đâu phải chỉ để nói tiếng Tây, mà cũng không phải để trở thành Tây (nay tôi là “người Mỹ gốc Việt”, người Pháp tưởng tôi là Nhật). Học trường Tây là có dịp đi vào thế giới của suy nghĩ và tâm tình Pháp, của văn minh và nghệ thuật Pháp, và từ đó tìm hiểu và thưởng ngoạn những tiến bộ, những thành quả của văn minh thế giới. Đến tuổi này và nơi này, dù là công dân Mỹ, tôi vẫn là người Việt nam. Tuy tôi chỉ là dân trường Tây nửa mùa, trường Tây và tiếng Tây vẫn là những mối “ tình đầu” không bao giờ phai.

Great Falls, ngày 27 tháng 4 năm 2005.