Thịt và hormone
Nguyễn thượng Chánh, dvm
Trong chuyện ăn uống thường ngày , vấn đề thịt bị nhiễm kháng sinh và hormone đôi khi được nêu ra . Thật vậy, đây cũng là mối ưu tư chung của nhiều người trong chúng ta. Đồng thời với các sự phát minh và tiến bộ khoa học thì việc sử dụng thuốc kháng sinh và hormone trong chăn nuôi là điều tất yếu khó tránh khỏi mà thôi .
Tại sao phải sử dụng hormone
trong chăn nuôi ?
Hormone tăng trưỡng ( growth hormone) giúp gia tăng hiệu suất của thực phẩm (feed efficiency) , thúc đẩy sự chuyển hóa thức ăn thành thịt một cách có hiệu quả hơn . Nói tóm lại là tiết kiệm được thức ăn nhưng con vật lại mau tăng cân , mau lớn hơn và cho 1 loại thịt có phẩm chất cao , mềm và ít mỡ .
Tại Canada, các loại hormones nào được cho phép sử dụng ?
Trên thế giới hiện nay có lối 12 quốc gia đã sử dụng hormones tăng trưỡng trong chăn nuôi . Riêng Canada có 6 hormones được chính thức cho phép dùng để kích thích sự tăng trưỡng của gia súc .
Vào những năm 60 , hormone DES ( diethylstilbestrol) thường được bác sĩ kê toa cho phụ nữ để giúp dưỡng thai , và ngừa hư thai . DES cũng rất phổ biến bên phía thú y . Một thời gian sau, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng DES là 1 hormone cực kỳ nguy hiểm .Các bà mẹ , nếu có sử dụng DES lúc mang thai , có thể tăng nguy cơ gây cancer cho cho cã thế hệ con cái sau nầy . Trường hợp nếu sinh ra con gái ( DES daughters) ,tuy còn trẻ ,chúng vẩn có thể bị cancer cổ tử cung và cancer âm hộ ( adenocarcinoma of vagina and cervix), còn nếu là con trai ( DES sons)thì có thể bị cancer dịch hoàn (testes cancer) . DES ngày nay đã bị cấm sử dụng trong y khoa cũng như trong thú y . Tại Hoa Kỳ DES có thể còn được thấy sử dụng ( bán theo toa Bs ) trong những ca rất đặc biệt dể trị vài loại cancer ác tính ở phụ nử hoặc cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông , nhưng trên hộp thuốc phải có ghi rỏ : for treatment of breast cancer in appropiately selected women and men with metastatic diseases and prostatic cancer, palliative therapy of advanced diseases.
Những loại gia súc nào được cấy hormone?
Canada chỉ cho phép sử dụng hormone tăng trưỡng ở bò thịt (Steer và heifer) mà thôi , và cấm sử dụng ở bò con nuôi để sản xuất ra thịt bê ( theo luật ,bê là những bò dưới 1 tuổi , khi hạ thịt quày thịt có da phải cân dưới 205 kg, hay dưới 180 kg nếu như đã lột da ) . Đối với gà, vấn đề không cần phải đặt ra vì hormone đã bị cấm sử dụng trong chăn nuôi gia cầm từ 1962 rồi .Ở bò thịt , hầu hết hormone đều được cấy (implant) dưới da cổ phía sau lổ tai . Riêng đối với hormone MGA , người ta trộn trong thức ăn của bò cái tơ (génisse, heifer ) để ngăn ch?n sự lên giống của nó . Hormone giúp cho con vật tăng trọng nhanh. Để thịt khỏi bị nhiễm chất MGA ,48 giờ trước khi đưa đi hạ thịt phải ngưng sử dụng loại hormone này .
Cấy hormone có lợi ích gì ?
Nhà chăn nuôi chỉ áp dụng các loại hormone tăng trưỡng khi con bò đã đạt được 1 trọng lượng nhất định nào đó . Hormone có tác dụng thúc đẩy ( booster ) bò mau tăng cân, cũng như cãi thiện tính chất của thịt và còn giúp tiết giảm thời gian nuôi được ngắn hơn lối 17 ngày so với thời gian sản xuất bình thường , nhờ đó mà giá thành sản xuất được giãm thiểu đáng kể và thịt bò được bán ra với giá không quá mắc .
Thịt chứa hormone
ăn vào có hại không?
Đây là một vấn đề khá phức tạp đang được các nhà khoa học trên thế giới tranh cãi dử dội . Việc dùng hormone trong chăn nuôi không phải là phương pháp được mọi người nhất trí hết . Phe thuận , gồm các giới kỹ nghệ thịt , chính phủ, và một số nhà khoa học nổi tiếng nhiệt tình cổ võ . Phe chống đối phần đông thuộc nhóm xanh tức là các nhóm có chủ trương bảo vệ môi sinh, các nhóm ăn chay , và một số các nhà khoa học Âu Châu . Cả 2 phía đều trưng ra những bằng chứng và lập luận khoa học rất có giá trị để bảo vệ quan điểm của mình . Nhưng nói chung ,thì tất cả mọi người đều nhìn nhận là ở một mức độ nào đó , và về lâu về dài tồn dư hormone sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe . Thời gian trước lúc dậy thì ( prepuberty)ở trẻ em là thời gian mà cơ thể chịu ảnh hưởng của hormone nhiều nhất . Triệu chứng có thể thấy là , kinh nguyệt xuất hiện sớm , vú nổi to , râu và lông mọc ra 1 cách bất thường , nhưng có 1 điều lo sợ nhất của mọi người là cancer .
Kiểm soát trên bình diện quốc tế
Các tổ chức quốc tế sau đây đều đồng ý và hậu thuẩn phương pháp sử dụng hormone tăng trưỡng trong chăn nuôi . Đó là Tổ Chức Y Tế Thế Giới ( WHO ) , Tổ Chức Lương Nông Thế Giới ( FAO ) , Groupe de Travail de la Commission Européenne sur les Agents anabolisants dans la Prouction Animale , Commission du Codex Alimentaire , và Codex Committee on residue in Veterinary Drugs in Foods ( CC/RVDF ) . Codex Alimentarius ấn định liều lượng thường nhật khả chấp ( acceptable daily intake ) cũng như liều lượng tối đa của tồn dư hormone ( maximum residue limit ) .
Canada kiểm soát vấn đề hormone như thế nào ?
Luật Lois et Reglements sur les Aliments et Drogues của Santé Canada ấn định rõ ràng thời gian ngưng thuốc ( withdrawal period), nếu có , trước khi đem con thú đi hạ thịt . Cơ Quan Kiểm Tra Thực Phẩm Canada ( CFIA) thường xuyên có những lịch trình thử nghiệm sự hiện diện của các tồn dư hormon trong thịt tại lò sát sinh . Sự phân phối hormone cho nhà chăn nuôi đều do các thú y sĩ đãm trách .
Thịt bò tại Hoa Kỳ và Canada
Cơ Quan FDA Hoa Kỳ và Health Canada đã trấn an mọi người và cả quyết rằng ăn thịt bò cấy hormone sẽ không có hại gì đến sức khỏe hết . Estrogen, Progesterone, và Testosterone đều là những hormones thiên nhiên hiện diện ở tất cả các loài động vật.Theo họ , thì bình thường trong cơ thể chúng ta, số lượng hormone này cũng nhiều gấp cả trăm lần hơn số lượng hormone mà ta ăn vào từ thịt bò . Ở trẻ em vào thời gian tiền dậy thì , lượng estrogen sản xuất ra hằng ngày ở vào khoảng 41500 nanograms ( ng) . Một ng tương đương với 1 phần tỉ của gram . Nếu em bé này ăn 120 gr thịt bò thì số lượng hormone trong miếng thịt cũng chỉ là 1,6 ng mà thôi . Trên lý thuyết , em bé phải ăn mổi ngày 32 kg thịt bò mới có thể bị bệnh được . Ngày nay , Hoa Kỳ không quan tâm đến các loại hormone thiên nhiên, nhưng họ chỉ chú trọng hơn đến các hormones tổng hợp mà thôi . FDA ấn định ngạch số an toàn của Trenbolon acetate là 50 ppb ( part per billion) và zeranol là 20 ppb . Ngược lại với Hoa Kỳ và Canada , các nhà khoa học châu Âu rất khắt khe . Họ cho rằng dù với 1 liều lượng cực nhỏ ( khoa học gọi là trace ) đi nửa , hormone vẩn có thể gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe. Mối liên hệ giửa sự tiêu thụ thịt đỏ (thịt bò, heo, cừu) và cancer đã được giới khoa học nhìn nhận từ lâu rồi . Đồng thời với nổi lo ngại này , từ hơn 10 năm nay Hội Đồng Châu Âu ( European Union) đã giằng co với Hoa Kỳ và Canada trong vụ thịt bò .. và họ đã cấm vận nhập cảng thịt bò đến từ Bắc Mỹ với lý do là thịt có chứa quá nhiều hormone . Lẽ đương nhiên là Hoa Kỳ và Canada đều cực lực phản đối quyết định trên và lôi Hội Đồng Châu Âu ra trước Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (Organisation Mondiale du Commerce , World Trade Organization WTO) để nhờ phân xử . Mặc dù bị thua kiện nhưng Hội Đồng Châu Âu vẩn khư khư duy trì quyết định cấm vận thịt bò Mỹ và Canada . Phải chăng đàng sau vụ xích mích nầy , lý do thật sự của nó là vấn đề dollar và chính trị ?
Kết luận
Ngày nay thịt đã chiếm một vị trí không nhỏ trong tập quán ăn uống của chúng ta. Thống kê Canada cho biết là dân xứ này hàng năm tiêu thụ bình quân 64,5 kg thịt đỏ trong số này phân nửa là thịt bò . Đó là chưa kể đến thịt trắng như thịt gà và thịt gà Tây vv…Theo như lời 1 vị giáo sư nổi tiếng , trưởng khoa Chaire en Salubrité des Viandes, Université de Montréal thì thịt sản xuất tại Canada là loại thịt rất tốt và rất an toàn , phẩm chất và tính chất trong lành của nó được cãi thiện thêm lên mãi . Mặc dù với những lời lẽ đầy lạc quan và khích lệ của các giới khoa học tại Hoa Kỳ và tại Canada , nhưng hình như phần đông người tiêu thụ vẩn còn hoài nghi và lo ngại bởi những lời tuyên bố đôi khi có vẻ trái ngược nhau của một số nhà chuyên môn trên thế giới . Các bạn nghĩ sao ?
Montreal , April 21, 2005