Bệnh Dại
Nguyễn thượng Chánh , dvm
Keywords : Rage , rabies
Bệnh dại còn được gọi là bệnh chó dại vì trong thực tế
thường do chó điên cắn phải .. Bệnh dại vẩn còn là 1 vấn đề trọng đại tại các vùng Đông Nam Á , như Việt Nam , Thái Lan ,Ấn độ , Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh . Hằng năm, số tử vong vì bệnh chó dại cắn được ước đoán vào khoảng trên 50 000 người khắp thế giới . Tại các quốc gia đang phát triển trong đó có Viêt Nam ,bệnh dại rất khó được kiễm soát vì phần lớn chó không được chủng ngừa dại , ngoài ra sự kiện thả chó chạy rong khắp xóm làng cũng làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh dại cho các loài vật khác và cho người . Ngược lại , tại các quốc gia Tây phương và Bắc Mỹ , bệnh dại vẩn có nhưng ở một mức độ ít nghiêm trọng hơn . Tại những xứ nầy, hầu như đa số chó và mèo đều bị bắt buộc chủng ngừa dại hết và luật cũng cấm ngặt việc thả chó chạy rong ngoài đường phố . Tại Âu Châu , Hoa Kỳ và Canada chương trình phòng chống bệnh dại ở thú rừng cũng đã được áp dụng nhầm mục đích giảm thiểu phần nào sự lây nhiễm bệnh dại từ thú rừng đến các loài gia súc . Riêng Canada, từ năm 1925 đến nay chỉ có 21 người chết vì bệnh dại trong đó 12 ca đã xảy ra tại tỉnh bang Quebec .
Những loài vật nào thường bị dại ?
Tại Việt Nam , bệnh dại xảy ra nhiều nhất ở loài chó ( 97 %), kế đến là ở loài mèo (3% ) .Một số thú rừng cũng có thể mang mầm bệnh dại, người ta gọi chúng là những ổ dại để lây nhiễm các loài vật khác . Tại Canada bệnh dại do chó cắn chiếm 1 tỉ lệ không đáng kể. Chó mèo và đôi khi bò cũng có thể bị dại thường là từ thú rừng lây sang . Tại Bắc Mỹ ,4 con vật hoang dã
sau đây thường hay mang mầm bệnh dại nhất : chồn, dơi , chồn hôi ( mouffette ,skunk) , và gấu trúc Mỹ ? ( raton laveur ,raccoon ) . Ngoài ra ,mèo rừng (lynx, wildcat) và chó sói đồng cỏ ( coyote ) cũng là đối tượng của bệnh dại . Theo cơ quan CDC các loài gậm nhấm nhỏ như chuột , hamster, thỏ, sóc không thấy bị nhiểm bệnh dại tại Bắc Mỹ . Chuột chũi (marmotte, woodchuck, ground hog) và chồn sương (furet, ferret) cũng có thể nhiễm bệnh dại . Nếu nuôi ferret trong nhà như 1 thú cảnh ( pet ), thì nó cần phải được chủng ngừa dại . Tại Âu Châu, chồn và chó sói là 2 loại thú thường có mang mầm bệnh dại nhiều nhất .
|
|
Bệnh dại lây nhiễm bằng cách nào ?
Tác nhân là Lyssa virus có nhiều trong nước bọt của thú mang bệnh dại .Qua vết cắn, virus theo
đường thần kinh tấn công vào hệ thần kinh trung ương (hay não bộ ) của các loài động vật hữu nhủ kể cả loài người và gây nên tình trạng viêm não tủy ( encephalomyelitis). Sau đó, virus trở xuống các tuyến nước bọt và một số vùng khác của cơ thể nạn nhân . Nên biết rằng con thú vẩn có khả năng lây bệnh 1 vài ngày trước khi các biểu lộ của bệnh dại xuất hiện ra . Trên lý thuyết virus cũng còn có thể xâm nhập qua các vết trầy , vết xây xát ngoài da , cũng như qua ngỏ niêm mạc mắt , mũi và miệng. Theo cơ quan The Centers for Disease Control & Prevention (CDC ) Hoa Kỳ, sự kiện lở có tiếp xúc với phân, nước tiểu và máu của thú dại không phải là 1 chỉ định để được chích ngừa . Virus chịu đựng được nhiệt độ lạnh , nhưng lại dể bị hủy diệt bởi nhiệt độ cao như trong việc nấu nướng .
Đã bị nhiễm rồi mà không hay ?
Thời kỳ ủ bệnh ( incubation period ) rất dài , trung bình là từ 10 ngày đ
ến 2 tháng , nhưng đôi khi cũng có thể lâu hơn nửa , có khi tới 1 năm . Đây là thời gian từ lúc virus xâm nhập vào cơ thể cho đến lúc triệu chứng của bệnh dại phát hiện ra ngoài . Gốc virus lây nhiễm cũng như vị trí nơi bị thú điên cắn ảnh hưởng đến thời gian xuất hiện của bệnh dại . Bị cắn nơi đầu , nơi cổ hay nơi mặt thì triệu chứng bệnh dại sẽ xuất hiện sớm hơn là nếu như bị cắn nơi chân .Làm sao biết được con thú đã bị dại ?
Ở thú vật bệnh dại có thể được biểu lộ qua 1 trong 2 thể sau đây :
|
|
Nếu nghi con vật đã bị dại , chúng ta cần phải làm gì ?
Nếu là thú hoang , hoặc thú rừng thì chúng ta nên tránh ra xa . Nếu là thú nuôi trong nhà thì tìm cách nhốt riêng nó ra và cách ly với các thú khác. Tại Canada , về mặt pháp lý bệnh dại là 1 bệnh bắt buộc phải khai báo (reportable disease, maladie à déclaration obligatoire) với cơ quan y tế công cộng và với cục Kiễm Tra Thực Phẫm . . Nếu đã bị chó cắn rồi thì phải rửa thật kỷ vết thương với savon và nước lạnh , sát trùng bằng Iodine , thay bỏ hết quần áo bẩn ra, và hảy lập tức đến ngay bệnh viện để được giám định và chích ngừa . Phải giam giử con vật lại trong 10 ngày để kiễm soát. Thông thường nếu đã bị dại thì con chó phải chết trong vòng 10 ngày . Nếu trong khoảng thời gian nầy mà có triệu chứng bệnh dại xuất hiện ra , con vật sẽ bị giết đi, đầu bị cắt rời và được gởi khẩn cấp đến Institut de Recherches Vétérinaires, Nepean, Ontario để xét nghiệm . Trong vòng 24 tiếng đồng hồ sẽ có kết quả và bệnh nhân phải được chích ngừa ngay lập tức . Đây là biện pháp chủng ngừa sau khi bị cắn ( post exposure prophylaxis) . Có trường hợp bị cắn, nhưng con vật đã chạy mất rồi, trường hợp này phải được xử lý như là đã bị thú dại cắn .
Chúng ta có thể làm gì đ
ể ngăn chận sự lây lan của bệnh dại ?
Bệnh dại ở người
Ở Canada ,ít có ai chết vì bệnh dại do thú vật lây sang . Gần đây nhất là vào năm 2000 cũng đã xảy ra 1 ca dơi lây bệnh dại làm chết 1 em bé 9 tuổi ngụ tại vùng Laurentide ,tỉnh bang Quebec . Em bé xấu số nầy đã tìm gặp con vật trong nhà tắm và em đã dùng tay không bắt dơi đem bỏ ra ngoài sân . Có lẽ con vật đã quào hay cắn em chổ nào đó mà em không để ý. Ba tuần sau thì em ngã bệnh và chết tại bệnh viện . Thử nghiệm cho biết nạn nhân đã chết vì bệnh dại . Các cơ quan trách nhiệm về y tế công cộng và thú y thường xuyên cảnh giác dân chúng về hiểm họa của bệnh dại ở thú hoang dã . Mùa hè, chúng ta thường hay đi cấm trại, đi pic nique , băng rừng hoặc trèo núi, đó là dịp chúng ta có thể chạm trán với các loại thú hoang dã . Vậy cần phải cẩn thận và dặn dò các cháu bé đừng bao giờ xờ mó vào những thú lạ , như dơi chẳng hạn . Ngoài việc giáo dục dân chúng về hiểm họa của bệnh dại ra , nhiều chương trình phòng ngừa bệnh dại của thú rừng vẩn thường xuyên được thực hiện ngỏ hầu làm giãm bớt đi phần nào sự lây truyền bệnh nầy đến các loài gia súc . Người ta dùng phi cơ để rãi những loại vaccin oral tức là những thức ăn đặc biệt có trộn thêm virus bệnh dại xuống những cánh rừng để chủng ngừa bệnh ở thú hoang . Ở Canada ,người ta nhấm vào loài gấu trúc Mỹ ( raccoon ) , còn ở Âu Châu thì nhấm vào loài chồn . Chương trình nầy cho thấy kết quả rất khích lệ tại Canada .
|
|
Vấn đề nan giãi của bệnh dại là thời gian ủ bệnh quá dài . Đôi khi nạn nhân quên phức đi là mình đả bị thú cắn , bị thú liếm hoặc mình có tiếp xúc đụng chạm với thú vật từ lúc nào , vì vết thương đã lành và họ vẩn cãm thấy bình thường không có triệu chứng gì hết . Sự kiện nầy đã gây rất nhiều trở gại cho việc chẩn đoán bệnh dại được chính xác để có thể ấn định phương cách chủng ngừa cho kịp thời . Ở người , bệnh dại bắt đầu bằng những dấu hiệu không rỏ rệt . Bệnh nhân cãm thấy uể oải khó chịu trong người , hơi sốt nóng, đôi khi bị nhức đầu , và mất cãm giác đói bụng . Dần dần thì triệu chứng thần kinh xuất hiện ra, như mất ngủ , tinh thần trở nên căng thẳng, lo âu , rối loạn , lo sợ vô cớ , sợ tiếng động , sợ ánh sáng, hay bị kích thích và có ảo giác. Kế đến là bị co giật hoặc bị tê liệt , nước miếng nước bọt tiết ra rất nhiều và nuốt rất khó khăn . Bệnh nhân tỏ vẻ rất sợ nước (hydrophobia ) . Mổi khi thấy nước là các cơ vùng cổ họng , thanh quản co thắt lại rất đau đớn . Bệnh nhân lên cơn điên dại , lúc tỉnh , lúc mê , kế đến là tê liệt bắt đầu ở 2 chân ( paralysie ascendante ) sau đó thì liệt cả 2 tay , cuối cùng là liệt hô hấp và chết đi . Một khi triệu chứng đã xuất hiện ra thì không thể chửa trị kịp nửa . Bởi vậy , trong thời gian đi du lịch, nếu lở có bị chó hay mèo cắn , thì bằng mọi giá phải đến bệnh viện để được chích ngừa post exposure prophylaxis , đừng nên nấn ná để chờ lúc trở về Canada hay về Mỹ hả hay , đôi khi đến lúc đó thì đã quá trể rồi . Việc chích ngừa sau khi bị thú cắn, chủ yếu nhầm 2 mục đích chính. Trước hết là cấp ngay cho bệnh nhân một lượng kháng thể chống bệnh dại . Đây là phương pháp miễn dịch thụ động ( passive immunization ) . Ngày xưa người ta dùng huyết thanh (serum antirabique ) của ngựa đã được chủng ngừa dại từ trước . Loại serum nầy có chứa kháng thể để bão vệ bệnh nhân 1 cách cấp thời . Cần phải tiêm 1 khối lượng rất lớn và tiêm nhiều mũi . Phương pháp nầy rất đau đớn, và có thể gây ra những phản ứng bất lợi nên ngày nay không còn được sử dụng nửa . Để thay thế , hiện nay hầu hết các quốc gia kỹ nghệ trên thế giới đều dùng chất immune globulins (Ig) còn gọi là gamma globulins trích từ huyết tương ( plasma) người để tiêm cho bệnh nhân bị chó cắn . Đây là chất Human Rabies Immune Globulins ( HRIG ) . Mục tiêu thứ hai của việc chích ngừa là giúp cho cơ thể nạn nhân có thể tự tạo ra kháng thể để chống lại virus bệnh dại . Người ta gọi đây là phương pháp miễn dịch tích cực (active immunization ) . Qua phương pháp nầy người ta chích thẳng cho bệnh nhân 1 loại vaccin làm từ virus bệnh dại đã được làm vô hiệu hóa (inactivated ) nên không thể gây ra bệnh được , nhưng lại có khả năng tạo ra được sự miễn dịch đối với bệnh dại . Thông thường bịnh nhân sẽ được chích 5 mũi trong vòng 28 ngày liên tục . Liền sau khi bị chó cắn , càng sớm càng tốt , gọi là ngày 0 , tiêm chất human rabies immune globulins và tiêm thêm 1 liều vaccin ngay lập tức , kế đến là chích 1 liều vaccin khác ở các ngày thứ 3 , ngày 7 , ngày 14 và ngày 28 . Thuốc được chích vào cánh tay và không có đau đớn gì hết . Chửa trị đúng lúc, kết quã 100% . Đối với phụ nữ đang mang thai, nếu bị chó dại cắn vẩn cần phải đuợc chủng ngừa như thường . Theo Viện Pasteur thì vaccin rất cần thiết trong ca nầy và không có kỵ thai .
Người có thể truyền bệnh dại
được hay không ?
Theo tài liệu được biết thì không thấy có đề cập đến trường hợp nào người nầy lây truyền bệnh dại cho người khác qua vết cắn hoặc qua nụ hôn nồng cháy kiểu thấy trong cinéma . Trên lý thuyết, nếu thật sự đã bị bệnh dại thì chắc chắn là có virus trong nước bọt rồi . Trường hợp bệnh dại lây truyền từ người nầy sang người khác được nói đến trên thế giới là do việc ghép giác mạc mắt ( corneal transplant ) . Bộ phận ghép đã được trích lấy từ nhửng nạn nhân chết vì tai nạn lưu thông chẳng hạn, nhưng họ đã bị nhiễm bệnh dại từ trước đó mà không ai biết. Đã có tất cả 8 ca trên thế giới được ghi nhận : Thái Lan 2 , Ấn độ 2 , Iran 2 , Hoa Kỳ 1 , và Pháp 1 . Đây là những trường hợp ngoại lệ rất hy hữu mà thôi .
Dơi và bệnh dại .
Dơi sống về đêm , ban ngày ngủ , tối bay đi kiếm ăn . Thức ăn của dơi là những loại côn trùng bay trong đêm để đi phá hại mùa màng . Cũng có loại dơi chỉ ăn có trái cây mà thôi . Khi đậu ngủ , dơi móc 2 chân lên cao và đầu thòng ngược xuống đất . Nơi dơi thường trú ẩn là dưới những nóc nhà , trong mái nhà thờ, dưới dạ cầu , trong các tàng cây xum xê, , trong các bọng cây hoặc trong các hang động . Tại Canada, mổi năm vào mùa đông dơi thường di chuyễn xuống phía nam ấm áp hơn . Trong thực tế ít có ai biết rỏ về con dơi . Tại Việt Nam , dơi được thấy bán ở 1 số nơi để người ta mua về nấu cháo ăn cho mát ? Phân dơi rất được ua chuộng trong việc trồng tỉa . Tại Bắc Mỹ , các nhà khoa học đều xác định dơi là loài vật rất nguy hiễm vì nó có thể mang mầm bệnh dại . Việc hít thở 1 số lượng lớn các tiết vật và bụi bậm từ phân dơi trong các hang động cũng có thể là nguyên nhân lây nhiễm bệnh dại . Tại Canada, Anh Quốc ,Hoa Kỳ ,và Đông Âu đả có người chết vì bệnh dại do dơi lây truyền rồi . Tại Châu Mỹ La Tinh , loài dơi hút máu ( vampire) mang mầm bệnh dại cũng đã gây thiệt hại nhiều cho ngành chăn nuôi bò . Từ năm 1996 đến năm 2000 , 131 con dơi mang bệnh dại đã được xác định tại tỉnh bang Ontario, Canada .
Vậy , làm sao chúng ta biết được dơi có bị dại hay không ? Bằng mắt thường chúng ta không thể nào biết được . Chỉ có qua xét nghiệm của labo
mới biết được mà thôi . Trong thực tế , có 1 vài dấu hiệu có thể giúp ta nghĩ rằng con dơi đã mắc bệnh dại . Đó là những khi dơi xuất hiện vào những giờ giấc bất thường , như lúc ban ngày , trên sân cỏ , hoặc nó cả gan bay là xà vào nhà chúng ta vào những lúc trời sáng tỏ . Trường hợp nầy chúng ta nên thận trọng bắt nó, tránh đừng để cho nó quào hay cắn , hoặc tìm cách an toàn giúp nó bay ra ngoài . Nếu không xong , chúng ta phải nhờ đến các công ty chuyên môn đến bắt dơi để gởi đi xét nghiệm . Nếu chẳng may bị dơi cắn hay quào rồi thì phải rửa kỹ vết thương bằng savon ,rồi bôi chất iodine lên và hảy đến bệnh viện ngay lập tức .Quan sát khắp nhà , kiễm soát tất cả ngỏ nghách , lổ hở dưới mái nhà, lổ ố
ng khói vv…Tất cả phải được bịt kín lại bằng lưới để tránh hậu họa .
Kết luận
Bệnh dại là 1 bệnh cực kỳ nguy hiễm từ thú vật lây truyền sang cho người . Đây là 1 zoonosis đã làm bận tâm không ít giới trách nhiệm về y tế công cộng . Nên nhớ là chỉ có chủng ngừa đúng cách và kịp thời mới có thể cứu mạng được . Ngoài ra không còn có cách nào khác hết ./.Tài liệu tham khảo :
http://www.cdc.gov/ncidod/dvrd/rabies/
-Institut Pasteur, Unité de Rage , FAQ
http://www.pasteur.fr/recherche/rage/faq.htmlMontreal, May 28, 2005