Văn Thiên Tường

文天祥

人生自古誰無死

留取丹心照汗青

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Xưa nay hỏi có ai không chết?

Hãy để lòng son chiếu sử xanh

 

Văn Thiên Tường (文天祥, 6/6/1236-9/1/1283) là thừa tướng nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng và là anh hùng dân tộc của Trung Hoa.

Mục lục

Xuất thân

Văn Thiên Tường ban đầu có tên Vân Tôn (雲孫), tự Thiên Tường (天祥), sau đổi thành Tống Thụy (宋瑞) và có tự là Lí Thiện (履善), hiệu Văn Sơn (文山). Ông xuất thân từ Cát Châu Lô Lăng (吉州廬陵), bây giờ là huyện Cát An, tỉnh Giang Tây). Lúc còn nhỏ, Văn Thiên Tường chăm học, đọc nhiều sách, ông thích nhất là những câu chuyện nói về "Trung thần nghĩa sĩ". Tư tưởng yêu nước đã ăn sâu vào tâm hồn ông. Năm 1253, đời vua Tống Lý Tông, Văn Thiên Tường 17 tuổi, tham gia kỳ thi Hương ở Lô Lăng, tên đậu đầu bảng. Lúc đứng trước tượng Âu Dương Tu, ông đã nói : "Sau này tôi chết đi, nếu không được như ông, mọi người tưởng nhớ, thì tôi không phải là bậc đại trượng phu".

Đường công danh

Năm 1255, ông cùng em là Văn Bích tham gia kỳ thi Tiến sĩ và cả hai đều có tên trúng cử. Vào ngày công bố người trúng tuyển, Văn Thiên Tường đứng đầu trên 601 người đậu Tiến sỹ rồi ông được mang danh trạng nguyên, thì ông được tin cha chết. Hai anh em phải trở về quê hương khi chưa kịp nhận chức tước. Mãi đến năm 1259, Văn Thiên Tường mới được bổ nhiệm Công sự phán quan, một chức quan xử kiện. Khi quân nhà Nguyên tràn vào đất Tống, ông ứng "chiếu Cần Vương" dưới cờ vua Tống Cung Đế.

Năm 1275, ông được cử làm Hữu Thừa tướng, Khu mật sứ, Đô đốc thống quản quân mã. Vào tháng 8 năm đó, chẳng may văn Thiên Tường bị thua trận ở Lô Lăng, may có người cứu thoát. Vợ là phu nhân Âu Dương, con trai thứ là Phật Sinh, hai con gái là Liễu Nương và Hoàn Nương đều bị quân Nguyên bắt giam. Công cuộc kháng chiến chống Nguyên không thành và ông bị quân Nguyên bắt đưa về Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay).

Năm 1278, mẹ ông và người con trai đầu mới 13 tuổi bị bệnh qua đời khiến ông vô cùng đau buồn. Triều đình phong cho ông làm Thiếu bảo, Tín Quốc công thi hành chủ trương tiến bộ. Trong thời gian ở Lâm An, tình thế quẫn bách, triều đình đã cử ông đến đại bản doanh Thừa tướng triều Nguyên là Bá Nhan đàm phán cầu hàng. Vua Nguyên thấy ông là người có tài và có khí tiết định giam giữ dụ hàng. Khi Bá Nhan lấy cái chết đe doạ, ông đã khảng khái nói :"Tôi hiện đang là Tể tướng triều Tống, chỉ lấy cái chết để đền nợ nước, nếu lấy gươm đao dọa nạt, chẳng làm gì được đâu". Bá Nhan đã giữ ông lại và quyết định giải ông về Đại Đô (nay là Bắc Kinh).

Tiết khí

Vào cuối năm 1277, ông đã trốn thoát khi đang trên đường bị cưỡng bức lên phương Bắc ra mắt Nguyên Thế Tổ - Hốt Tất Liệt. Sau đó một thời gian, vào một buổi trưa tháng 12, Văn Thiên Tường đã xuất quân từ Hải Phong lên phía bắc, khi đi qua một quãng đường hẹp đã bị quân phục kích, rơi vào bẫy, không kịp trở tay và bị quân Nguyên bắt sống. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này quân Nguyên canh phòng ông nghiêm mật. Nhiều lần Văn Thiên Tường đã tìm cách trốn nhưng vô hiệu.

Một thời gian sau, bị nhà Nguyên tấn công cả hai phía Nam và Bắc, nhà Tống đã bị thất thủ. Thừa tướng triều Tống Lục Tú Phu cõng vị hoàng đế hãy còn ít tuổi nhảy xuống biển tuẫn tiết. Chiến tranh kết thúc, quân Nguyên bày yến tiệc để mừng công, Văn Thiên Tường cũng được mời đến. Trương Huyền Phạm, đô đốc quân thủy nhà Nguyên đã nói với ông:

"Hiện nay, triều Tống đã mất, trung hiếu của ông cũng hết rồi. Thừa tướng có thể thay đổi ý kiến được không, làm việc cho triều Nguyên, mà Tể tướng triều Nguyên không phải là ông thì ai vào đó?"

Ông đã khảng khái trả lời:

"Nước mất không thể cứu được, làm quan đại thần thì tội quả đáng chết, lẽ nào còn tham sinh sợ chết, phản bội Tổ quốc được?"

Trên đường giải từ Quảng Châu lên Đại Đô, thời tiết khắc nghiệt, mưa gió tầm tã, Văn Tường bị xích giải đi. Ông đã từng tuyệt thực, nhịn đói, nhịn khát, muốn lấy cái chết để phản kháng, có lúc ông lại tìm cách trốn thoát, nhưng tất cả đều vô hiệu, vì quân Nguyên canh phòng nghiêm mật. Những lúc đó ông lại làm thơ gửi gắm tâm hồn, ý nguyện. Triều Nguyên muốn lợi dụng ông để lung lạc nhân tâm, hòa hoãn ý chí chống Nguyên của nhân dân Giang Nam nhưng vẫn không mua chuộc được ông. Triều Nguyên đã cho Lưu Mộng Viêm là Thừa tướng triều Tống đã hàng đến dụ hàng Văn Thiên Tường. Vừa trông thấy Lưu Mộng Viêm, Văn Thiên Tường lòng bốc giận, mắng rủa thậm tệ. Tiếp theo triều đình nhà Nguyên đưa Hoàng đế lưu vong của Nam Tống mới 9 tuổi đến khuyên ông đầu hàng. Văn Thiên Tường trông thấy vua cũ, tuy không thóa mạ, nhưng lạnh nhạt nói : "Xin thánh giá hồi cung".

Vào một ngày tháng 5, triều đình nhà Nguyên lại cho người dẫn Văn Bích, em trai ông đã đầu hàng giặc đến khuyên ông nên hàng, Văn Thiên Tường kiên quyết: "Anh em một người là tù, một người cưỡi ngựa, cùng cha mẹ nhưng không đội một trời". Năm 1283, ông bị đưa đến Kim Loan điện để gặp Hốt Tất Liệt. Ông đứng sừng sững, bị lính đánh đến gãy xương, vẫn không chịu quỳ. Hốt Tất Liệt đề nghị ông theo nhà Nguyên, sẽ phong ông làm Thừa tướng nhưng ông không chấp nhận. Triều đình nhà Nguyên dày vò thân xác ông nhưng không nổi, cuối cùng đã dùng mẹo "tình cốt nhục" buộc con gái ông là Liêu Nương hiện đang bị chúng bắt giữ viết thư cho ông. Đến lúc này ông mới biết khi thua trận vợ và con ông cũng bị bắt luôn.

Sau ba năm thấy không thể khuất phục được ông, vua Nguyên hết cách bèn đem ông giết nhưng vẫn khen là "chân nam tử". Ông chết lúc mới 47 tuổi.

Khi hậu táng Văn Thiên Tường, mọi người đã phát hiện có một tờ giấy quấn quanh đai lưng của thi thể ông, tờ giấy đã được viết thay cho lời trăn trối:

"Chức vụ tôi là Tể tướng, mà không cứu được xã tắc, ổn định thiên hạ, quân bại nước nhục, tội đáng chết từ lâu. Từ ngày bị bắt đến nay, không làm điều gì gian dối. Ngày nay cơ sự thế này, xin hướng về phương Nam lạy trăm lạy. Xin được nói: Khổng Tử nói muốn có nhân đức phải giữ nghĩa, tôi giữ nghĩa đến cùng nên có nhân. Đọc sách thánh hiền, học được chuyện gì? Ngày nay, ngày sau khỏi hổ thẹn. Tống thừa tướng Văn Thiên Tường tuyệt bút".

Văn Thiên Tường tuy chết, nhưng phẩm chất đạo đức cao thượng của ông mãi mãi để cho người đời sau kính ngưỡng. Ông cùng với Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt được sử Tàu gọi là "Tống vong tam kiệt" (ba bậc hào kiệt lúc nhà Tống mất).

Văn chương

Văn Thiên Tường còn là một nhà thơ, nhà văn. Văn chương ông có lời lẽ khảng khái, hào hùng của kẻ sĩ trong thời nước nhà lâm nạn. Khí tiết của Văn Thiên Tường ảnh hưởng rất nhiều đến sĩ phu đời sau. Hai câu thơ:

 

人生自古誰無死

留取丹心照汗青

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Xưa nay hỏi có ai không chết?

Hãy để lòng son chiếu sử xanh

đã được Nguyễn Công Trứ dùng trong bài hát nói "Chí Nam Nhi" nổi tiếng của mình:

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả, trả vay

Chí làm trai nam bắc đông tây,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh

Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ

Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,

Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong

Chí những toan xẻ núi lấp sông

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ

Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu

Đây là bài gốc có câu này của Văn Thiên Tường:

過零丁洋
作者:文天祥

辛苦遭逢起一經
干戈寥落四周星
山河破碎風飄絮
身世浮沉雨打萍
惶恐灘頭說惶恐
零丁洋裏嘆零丁
人生自古誰無死
留取丹心照汗青

Quá Linh Đinh Dương

Tân khổ tao phùng khởi nhứt kinh,

Can qua liêu lạc tứ châu tinh.

Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ,

Thân thế phù trầm vũ đả bình.

Hoàng Khủng than đầu thuyết hoàng khủng,

Linh Đinh dương lý thán linh đinh.

Nhân sanh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Qua biển Lênh Đênh

Cay đắng do từ một sách kinh

Bốn năm quạnh quẽ cảnh đao binh

Bông tung gió: vỡ tan sông núi

Gió đập bèo: chìm nổi kiếp mình

Ghềnh Sợ Hãi kể niềm sợ hãi

Biển Lênh Đênh than nỗi lênh đênh

Xưa nay hỏi có ai không chết

Hãy để lòng son chiếu sử xanh

Bài "Chính khí ca" cũng là một tác phẩm hết sức nổi tiếng của ông, được Văn Thiên Tường làm khi đang ở trong nhà tù của quân Nguyên.

正氣歌
作者:文天祥

天地有正氣
雜然賦流形
下則為河嶽
上則為日星
於人曰浩然
沛乎塞蒼冥
皇路當清夷
含和吐明庭
時窮節乃見
一一垂丹青

在齊太史簡
在晉董狐筆
在秦張良椎
在漢蘇武節
為嚴將軍頭
為嵇侍中血
為張睢陽齒
為顏常山舌
或為遼東帽
清操厲冰雪
或為出師表
鬼神泣壯烈
或為渡江楫
慷慨吞胡羯
或為擊賊笏
逆豎頭破裂

是氣所磅礡
凜烈萬古存
當其貫日月
生死安足論
地維賴以立
天柱賴以尊
三綱實繫命
道義為之根

嗟予遘陽九
隸也實不力
楚囚纓其冠
傳車送窮北
鼎鑊甘如飴
求之不可得
陰房闃鬼火
春院閟天黑
牛驥同一皁
雞棲鳳凰食
一朝蒙霧露
分作溝中瘠
如此再寒暑
百沴自辟易
嗟哉沮洳場
為我安樂國
豈有他繆巧
陰陽不能賊

顧此耿耿在
仰視浮雲白
悠悠我心悲
蒼天曷有極
哲人日已遠
典刑在夙昔
風簷展書讀
古道照顏色

Chính khí ca

Thiên địa hữu chính khí

Tạp nhiên phú lưu hình

Hạ tắc vi hà nhạc

Thượng tắc vi nhật tinh

Ư nhân viết "hạo nhiên"

Bái hồ tắc thương minh

Hoàng lộ đương thanh di

Hàm hòa thổ minh đình

Thời cùng tiết nãi hiện

Nhất nhất thùy đan thanh

Tại Tề thái sử giản

Tại tấn Đổng Hồ bút

Tại Tần Chu Hợi truỳ

Tại Hán Tô Vũ tiết

Vi Nghiêm tướng quân đầu

Vi Kê thị trung huyết

Vi Trương Thư Dương xỉ

Vi Nhan Thường Sơn thiệt

Thanh tháo lệ băng tuyết

Hoặc vi Xuất Sư Biểu

Quỉ thần khấp tráng liệt

Hoặc vi độ giang tiếp

Khẳng khái thôn hồ yết

Hoặc vi kích tặc hốt

Nghịch thụ đầu phá liệt

Thị khí sở bàng bạc

Lẫm liệt vạn cổ tồn

Đương kỳ quán nhật nguyệt

Sinh tử an túc luân

Địa duy lại dĩ lập

Thiên trụ lại dĩ tồn

Tam cương thực hệ mệnh

Đạo nghĩa vi chi căn

Ta dư cấu dương cửu

Lệ dã thực bất lực

Sở tù anh kỳ quan

Truyện xa tống cùng bắc

Đỉnh hoạch cam như di

Cầu chi bất khả đắc

Âm phòng niết quỉ hỏa

Xuân viện bí thiên hắc

Ngưu ký đồng nhất tạo

Kê thê phụng hoàng thực

Nhất triêu mông vụ lộ

Phân tác câu trung tích

Như thử tái hàn thử

Bách lệ tự tích dịch

Ai tai tự như trường

Vi ngã an lạc quốc

Khởi hữu tha cù xảo

Âm dương bất năng tặc

Cố thử cảnh thảm bại

Ngưỡng thị phù vân bạch

Du du ngã tâm bi

Thương thiên hạt hữu cực

Triết nhân nhật dĩ viễn

Điển hình tại túc tích

Phong diêm triển thư độc

Cổ đạo chiếu nhan sắc

 

Bài ca chính khí

Trời đất có chính khí

Tỏa ra cho muôn loài

Là sông núi dưới đất

Là trăng sao trên trời

Đầy rẫy cả vũ trụ

Khí hạo nhiên của người

Gặp cảnh đời bình trị

Triều thịnh vang lời vui

Khi cùng, tiết tháo rõ

Sử xanh ghi đời đời.

Ở Tề, sách Thái Sử

Ở Tấn, bút Đổng Hồ

Ở Tần, chùy Bác Lãng

Ở Hán, cờ họ Tô

Đầu Nghiêm thách trước giặc

Máu Kê trên áo vua

Răng Trương công chửi địch

Lưỡi Kiều Khanh mắng thù.

Hoặc là mũ Liêu Đông

Vẻ băng tuyết phau phau

Hoặc là biểu "Ra quân"

Lẫm liệt quỷ thần sầu

Hoặc qua sông gõ nhịp

Khảng khái nuốt quân Hồ

Hoặc giật hốt đánh giắc

Phường tiếm nghịch toang đầu.

Khi ấy tràn ngập tới

Oai nghiêm muôn thuở còn

Khi đã vượt nhật nguyệt

Sống thác chuyện con con!

Khuôn đất nhờ đó vững

Cột trời nhờ đó còn

Ba giường được gìn giữ

Đạo nghĩa có gốc nguồn.

Xót ta gặp vận ách

Tướng sĩ thực hèn nhát

Dải mũ buộc thân tù

Xe chở lên cực bắc

Ninh nấu cũng cam lòng

Còn để ta mong mãi

Phòng sâu ma lập lòe

Viện xuân thành ngục tối!

Ngựa giỏi nhốt cùng trâu

Chuồng gà, phượng nhặt thóc

Thân này khi gió sương

Đành rãnh ngòi lăn lóc

Thế mà hai năm qua

Tránh xa bao khí độc

Thương ôi! Chỗ lội lầm!

Lại sống yên tối sớm

Phải đâu khôn khéo gì

Âm dương không dám phạm

Vằng vặc tấm cô trung

Ngẩng nhìn mây trắng nổi

Buồn thay! Nỗi lòng ta

Trời xanh cao vời vợi!

Thánh hiền khuất lâu rồi

Khuôn phép vẫn không mất

Hiên gió mở sách coi

Gương xưa soi trước mặt.