Nói chuyện trên đài Sai Gon Houston – 25-5-2023
 
Đề tài: Người Việt di dân sau 48 năm (1975-2023)

 



 
Quý Linh (QL): - Thưa quý thính giả, đây là chương trình Văn Hóa Việt do Quý Linh thực hiện trên đài Saigon Houston mỗi tháng một lần vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư mỗi tháng.

Hôm nay chương trình Văn Hóa Việ hân hạnh được mời BS. Hồ Văn Hiền trở lại với quý thính giả đài Saigon Houston và trình bày đề tài: Người Việt di dân sau 48 năm: 1975-2023.

Chúng tôi xin mời BS. Hồ Văn Hiền lên tiếng chào thính giả của đài Saigon Houston.

 
BS. Hồ Văn Hiền (BS. Hiền): - Kính chào quý thính giả đài Saigon Houston. Xin chào chị Quý Linh.
 
QL: - Kính chào BS. Hồ Văn Hiền.

Thưa quý vị, chúng tôi xin phép BS. Hiền và quý thính giả để vắn tắt sơ lược một chút về lịch sử trong tháng 4 năm 1975 đưa đến cuộc di tản cuối tháng 4 năm đó và thời gian về sau.

Sau hiệp-định Paris năm 1973, chỉ còn khoảng 5.000 người Hoa Kỳ làm việc và ở lại nam VN, kể cả các nhà ngoại giao làm việc trong tòa đại sứ Hoa Kỳ. Nhưng dù có hiệp-định hòa bình mà chiến tranh vẫn tiếp diễn.

Tuần lễ đầu tiên của năm 1975, quân đội Bắc Việt kiểm soát tỉnh Phước-Long. Trong hai tháng Ba và Tư năm 1975, quân đội miền Bắc tiến chiếm nhiều thành phố miền Nam. Giữa tháng Ba, Ban-Mê-Thuột thất thủ. Người dân miền Trung lo ngại đổ dồn về Nha-Trang và Sài-Gòn càng ngày càng nhiều. Ngày 21-4, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, nhường chỗ cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Một tuần lễ sau, ngày 28-4, tổng thống Trần Văn Hương từ chức và nhường chỗ cho tướng Dương Văn Minh.

Chỉ một ngày sau, ngày 29-4, chính phủ Hoa Kỳ khởi sự chiến dịch Operation Frequent Wind để di tản tất cả nhân viên dân sự và quân sự Hoa Kỳ cũng như một số nhân viên Việt làm việc cho các cơ quan của Hoa Kỳ. Sự thực thì trong mấy tháng qua, đã nhiều nhân viên Hoa Kỳ lên đường về nước cùng với gia đình của họ, trong đó có cả một số các gia đình Việt có quan hệ với người Hoa Kỳ.

Cuộc di tản trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 được thực hiện ở hai địa điểm chính: phi trường Tân Sơn Nhứt nơi có trụ sở DAO (Defense Attache Office) và tòa đại sứ Hoa Kỳ.

Chắc quý vị đều đã thấy tấm hình đặc biệt của một ký giả nổi tiếng (Hugh Van Es) làm việc cho UPI chụp cảnh chiếc trực thăng đáp trên một nóc nhà ở giữa thành phố Sài Gòn trong cuộc di tản vào ngày 29-4-1975.

Sau khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, chỉ còn trực thăng là phương tiện duy nhất dùng để di tản nhân viên dân sự và quân nhân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đại sứ Martin cho phép di tản cả những người Việt có quan hệ với người Hoa Kỳ.

Ngày 30-4 được xem là ngày cuối cùng mà người Mỹ rút khỏi VN.

Chúng ta được biết trong tháng 4 và ngày cuối tháng 4 năm 1975, rất nhiều người Việt cũng đã dời khỏi nước hoặc bằng máy bay hoặc bằng tàu Hải quân, hoặc bằng trực thăng và lên hàng không mẫu hạm của đệ thất hạm đội HK để được di tản.

Thưa quý vị đó là vài lời tóm tắt về lịch sử cuộc di tản tháng 4 năm 1975.


QL: 1. Xin anh cho biết các bước thành hình của diaspora người Việt ở Hoa Kỳ kể từ năm 1975 đến nay.

BS. Hiền:

a. Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người.

b. Đợt thứ hai là các thuyền nhân (boatpeople), cao điểm vào năm 1978-1979 (năm diễn ra chiến tranh biên giới với Cambodia và Trung Cọng) tiếp diễn cho đến giữa thập niên 1980. Cuối cùng, Indonesia đóng cửa trại tị nạn ở Galang năm 1996; Thái Lan năm 1997; Philippines năm 1997, Hồng Kông năm 2000. Năm 2001, Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn chính thức dẹp bỏ trại tỵ nạn cuối cùng đặt tại Malaysia, chấm dứt 21 năm Cao ủy Tỵ nạn hợp tác ở nước này để giúp người vượt biển đến từ Việt Nam.(Wikipedia)

c. Đợt thứ 3 vào các thập niên 1980-1990

Để đối phó với những khó khăn mà thuyền nhân phải chịu đựng và hội nghị Geneva ngày 14 tháng 6 năm 1980 về Người tị nạn Đông Dương, chính phủ Hoa Kỳ đã cho phép người Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ thông qua chương trình ra đi có trật tự ODP (Orderly Departure Program) của UNHCR (Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Các diện sau đây được định cư ở Mỹ theo các chương trình này: đoàn tụ gia đình, cựu nhân viên Hoa Kỳ, và cựu tù nhân cải tạo. Các cựu tù cải tạo nhập cư vào Hoa Kỳ thông qua chương trình con (subprogram) của ODP gọi là Chiến dịch Nhân đạo (HO).

Chương trình ra đi có trật tự đã giúp hơn 500.000 người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ trước khi chương trình này kết thúc vào năm 1994.

Vào tháng 11 năm 2005, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận mở lại ODP và gia hạn Tu chính án McCain (cho phép con cái của các cựu tù nhân cải tạo được nhập cư với cha mẹ của họ). Việc gia hạn ODP kết thúc vào tháng 2 năm 2009, với Tu chính án McCain hết hạn vào tháng 9 năm 2009.
(https://www.vietnam.ttu.edu/resources/vietnamese-american.php)

d. Trước đó, năm 1987, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Hồi hương Con Lai Mỹ-Á (Amerasian Homecoming Act), cho phép trẻ em Việt Nam có cha là người Mỹ nhập cư vào Hoa Kỳ, cho phép ước tính khoảng 23-25.000 con lai và 60-70.000 người thân của họ nhập cư vào Hoa Kỳ.
 
e. Hiện nay có chừng 4,5 triệu người sanh tại Việt Nam hay gốc người Việt Nam sinh sống tại hải ngoại (các báo ở VN cho con số cao hơn, chừng 5,3 triệu người Việt định cư tại nước ngoài, ví dụ báo Nhân Dân năm 2020, do Wikipedia trích dẫn).
 

QL: 2. Xin anh trình bày cho biết bối cảnh chính trị xã hội: những vấn đề mà người Việt di dân gặp khó khăn nhiều nhất khi mới đặt chân đến Hoa Kỳ như ngôn ngữ, nghề nghiệp, phong tục, v.v…
 
BS. Hiền: Chiến tranh tại Việt Nam là một trong những cuộc chiến dài nhất và bị ghét nhất của Hoa Kỳ, cho nên những người Việt nhập cư sau cuộc chiến này lại càng gặp khó khăn. Với tình cảm phản chiến vẫn còn mạnh mẽ và nước Mỹ vẫn còn quay cuồng đối phó với những thương vong của một cuộc chiến gây tranh cãi như vậy cũng như những xáo trộn chính trị (như vụ Watergate làm TT Mỹ Nixon phải từ chức), những người nhập cư Việt Nam thấy mình phải đối đầu với sự phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử và loại trừ”, nói theo ngôn ngữ hiện nay của những người phe tả “racism, discrimination, exclusion”.
 
Hồi đó, chúng ta từ trại tỵ nạn mới đến Mỹ, cảm giác tựa như được lên thiên đàng rồi, và cảm tình chính là lòng biết ơn với đất nước này đã cưu mang chúng ta, cho chúng ta một cuộc sống tự do, sung túc. Nên chúng ta không nhận thức những phân biệt đối xử, nếu có chúng ta cũng thông cảm, dễ bỏ qua, hoặc chịu không nổi thì tìm đi ở chỗ khác.
 
Tuy nhiên, thời đó có phim Alamo Bay (1984), do Louis Malle đạo diễn, nói về cuộc xung đột 4 năm trước giữa người Việt tỵ nạn đánh các trong vịnh Galveston ở Texas và các ngư phủ da trắng bị mất quyền lợi làm ăn của họ, được nhóm KKK hỗ trợ và huấn luyện quân sự. Nhưng cuối cùng về lâu dài, người Việt Nam không chỉ tiếp tục bám biển mà còn phát triển mạnh mẽ. ‘Chúng tôi thích thời tiết ở đây, chúng tôi thích đánh bắt tôm, chúng tôi thích cơ hội bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình,” một người nói với The Washington Post vào năm 1984. Tờ báo gọi đó là ‘câu chuyện cổ điển về người nhập cư của Mỹ. Họ đến, họ làm việc vất vả, họ hy sinh, họ vượt qua sự thù địch và bạo lực, họ đã chiến thắng.”
 
“Nhưng đây chính xác là nỗi sợ hãi mà [người thuộc nhóm kỳ thị Ku Klux Klan ông] Beam đã vũ khí hóa: ‘Người da trắng đã thua cuộc’. Đến năm 1984, một ngư dân kể rằng trong số 150 chiếc thuyền cập cảng, có thể 25 chiếc thuộc sở hữu của người Mỹ.’Hãy đối mặt với nó,’ ông nói, ‘họ đã xóa sổ chúng ta’.”(“they’ve wiped us out”.)”
https://timeline.com/kkk-vietnamese-fishermen-beam-43730353df06
 
Sau Chiến tranh Việt Nam, có hai làn sóng người nhập cư khác nhau đến Hoa Kỳ. Làn sóng đầu tiên diễn ra sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975; 125.000 người tị nạn Việt Nam chạy sang Hoa Kỳ. Những người nhập cư này là những người làm việc chặt chẽ với quân đội Hoa Kỳ hoặc có các vị trí nổi bật trong chính phủ miền Nam Việt Nam và sợ bị chính quyền cộng sản miền Bắc Việt Nam hành quyết. Làn sóng di cư đầu tiên này phải đối mặt với một cuộc di tản hỗn loạn ra khỏi đất nước và họ thường bị tách khỏi các thành viên khác trong gia đình. Khi đến Hoa Kỳ, những người nhập cư này được đưa đến làm thủ tục tại các trại tạm cư rải rác trên nước Mỹ, ở California, Pennsylvania, Arkansas và Florida. Sau đó, họ được chuyển đến ở gần những người bảo trợ, nhận “đỡ đầu” họ (sponsors) đáp ứng các nhu cầu căn bản. Quá trình di tản khỏi đất nước mình và được tập trung ở các trại tạm thời trong nước Mỹ trong khi chờ đợi một người bảo lãnh là một trải nghiệm độc đáo cho tới thời điểm đó chỉ xảy ra với những người nhập cư Đông Nam Á.
 
Làn sóng người nhập cư thứ hai diễn ra vài năm sau đó từ cuối những năm 1970 cho đến giữa những năm 1980. Những người nhập cư này rời Việt Nam sau khi chế độ cộng sản tìm cách thay đổi mọi mặt cuộc sống ở nước Việt Nam mới được thống nhất.

Vô số người tị nạn chạy trốn khỏi Việt Nam trên những chiếc thuyền nhỏ, nguy hiểm đến các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines hoặc Hồng Kông để chờ được chấp nhận trong các trại tị nạn. để đi đến Hoa Kỳ, Úc, Pháp hoặc Canada. Tuy nhiên, do các con thuyền này không an toàn, và do nạn hải tặc cướp bóc trên biển, khoảng 200.000 đến 400.000 người Việt Nam đã bỏ mạng trên đường vượt biển. Đối với một số người Mỹ, đi tìm một đời sống tốt hơn không phải là lý do chấp nhận được để nhập cư vào Mỹ, do đó họ có một cái nhìn tiêu cực và võ đoán về thuyền nhân đến Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc thuyền nhân sẵn sàng rời bỏ quê hương và liều mạng để cố gắng đến được các nước tự do cho thấy sự tuyệt vọng mà người Việt Nam phải trải qua trong những năm sau khi Sài Gòn sụp đổ và làm cho người ta có cảm tình với thuyền nhân hơn, kể cả những người nổi tiếng phe tả trước đây chống chính phủ VNCH như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre, người đã từng cọng tác với nhà toán học và triết gia Bertrand Russel (giải Nobel văn chương 1872-1970) lập tòa án điều tra “tội ác chiến tranh” tại Việt nam (1966-1967).
 
Một vấn đề lớn đối với làn sóng người tị nạn Việt Nam đặc biệt làn sóng thứ hai (thuyền nhân) là “Rối loạn căng thẳng sau chấn thương” (PTSD) do những nỗi kinh hoàng mà họ phải đối mặt khi rời đất nước để đến Hoa Kỳ. Những người bị PTSD thường không tìm kiếm sự giúp đỡ vì các thành kiến tiêu cực liên quan đến bệnh tâm thần trong những năm 1970 và 1980 và những bác sĩ chuyên về tâm thần nói được tiếng Việt không nhiều. Họ thường trải qua những cơn ác mộng lập đi lập lại, có dấu hiệu trầm cảm và họ có thể thể hiện những hành vi có vẻ như chống đối xã hội. Khá thú vị là các triệu chứng mà họ gặp phải tương tự như các triệu chứng của người lính Mỹ mắc PTSD từng tham chiến ở Việt Nam. Căn bệnh tâm thần này khiến một số người tị nạn càng khó hòa nhập hơn nữa với văn hóa Mỹ, khó kiếm việc làm hoặc hòa nhập với cộng đồng mới của họ ở Hoa Kỳ.
 
Một khó khăn lớn trong việc thích ứng với môi trường mới là ban đầu người nhập cư Việt Nam bị tản mát khắp nước Mỹ theo chính sách hồi đó. Những người nhập cư được bảo trợ đã phải di chuyển đến đủ thứ nơi, gây khó khăn cho chúng ta là những người từ một nền văn hóa cần rất nhiều kết nối và điểm tựa từ gia đình và cộng đồng của mình. Trường hợp điển hình là nhân vật truyền thông nổi tiếng Leyna Nguyễn, năm 1975 cô 5 tuổi, cùng theo gia đình di tản qua Hoa Kỳ và định cư tại tiểu bang Minnesota, nơi rất vắng vẻ và không có người Việt. Một hôm gia đình cô tìm được sau vườn một rau gì đó giống rau ở Việt Nam, đem về nấu ăn, ngon quá nên ngủ say. Đến lúc sponsor về thấy tưởng là cả nhà bị ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên đây cũng là yếu tố giúp cho cô nói đúng giọng Mỹ và thành công trong môi trường rất cạnh tranh của kỹ nghệ truyền thông truyền hình dòng chính của Mỹ.
 
Như chúng ta đã bàn ở trên, nói chung dân Mỹ rất bất mãn về Chiến tranh Việt Nam. Những người nhập cư Việt Nam thường phải đối mặt với sự phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử từ công dân Mỹ, đặc biệt là trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam. Tình cảm bài châu Á này bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 (với người Tàu) và tiếp tục kéo dài đến những năm 1970 và 1980.

Theo một cuộc thăm dò năm 1975 của Gallup, hơn một nửa công chúng Hoa Kỳ không đồng ý với việc tái định cư của người Việt sang Hoa Kỳ. Thái độ này đối với việc người Việt Nam nhập cư ào ạt là do dân Mỹ đã chán ngấy cuộc chiến ở Việt Nam, trong khi có những dữ kiện thống kê cho thấy xu hướng ở Mỹ coi người Việt Nam là “kẻ thù”, mặc dù hầu hết người tị nạn Việt Nam đã từng đứng về phía Mỹ trong chiến tranh, có lẽ họ hiểu sai đây là cuộc chiến giữa Mỹ và Việt Nam, thay vì thực chất là một cuộc nội chiến giữa người Việt miền Nam đồng minh với Mỹ và người Việt miền Bắc được thế giới cọng sản hổ trợ.

Không có giải thích chính xác lý do đằng sau dữ liệu từ cuộc thăm dò, nhưng nó khiến việc tái định cư cho những người nhập cư Việt Nam sau chiến tranh trở nên vô cùng khó khăn.
 
 
QL: 3. Trong 48 năm, gần một nửa thế kỷ đã trôi qua, hẳn đã có nhiều thay đổi trong đời sống của người Mỹ gốc Việt. Xin anh cho biết trong 48 năm qua các thay đổi có thể nhận thấy rõ rệt hơn cả trong các phạm vi nào?
 
BS. Hiền: Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác. Ví dụ nổi bật nhất của những vùng đất này là “Little Saigon” ở Quận Cam, California. Gần đây hơn, dân số người Mỹ gốc Việt vào khoảng trên hai triệu người (2.200.000), đây là số người Việt Nam lớn nhất sống ngoài Việt Nam. Việc tái định cư của người Việt nhập cư vào một cộng đồng người Mỹ gốc Á giúp họ dễ dàng thích nghi với một nền văn hóa mới như vậy.
 
Little Saigon, California, thuộc Orange County, dân số có chừng 190.000 người gốc Việt, với các thành phố Westminster 43.000 và Garden Grove 54.000.

Cách Los Angeles khoảng 45 dặm (72 km) về phía nam, Westminster từng là một thành phố ngoại ô thuộc tầng lớp trung lưu chủ yếu là người da trắng của Quận Cam (Orange County) với nhiều đất nông nghiệp, nhưng thành phố này sau đó đã xuống dốc vào những năm 1970.

Năm 1975 50.000 người Việt đáp máy bay xuống phi trường El Toro ở Camp Pendleton Marine Corps Base. “Lính Thủy quân lục chiến dựng một thành phố lều đồ sộ trên sườn đồi bụi bặm của Trại Pendleton và múc ra những bát phở bò, mì phết bơ và cơm trắng với dưa chuột thái lát. Một số Thủy Quân Lục Chiến mở ví bỏ tiền mua đũa cho người tỵ nạn. Nhưng không phải ai cũng chào đón họ như vậy. Lúc đầu, Quận Cam bảo thủ có vẻ không phù hợp với nghững người Việt mới đến này. Gần như ở mọi ngã rẽ, họ đều bị hắt hủi, đổ lỗi và bị bảo là hãy giống người Mỹ hơn. Nhưng hóa ra chính trị chống cộng, tinh thần cạnh tranh và trái tim kinh doanh của họ cũng giống như người Mỹ.” (https://www.ocregister.com/2015/05/01/how-they-became-us-orange-county-changed-forever-in-the-40-years-since-the-fall-of-saigon/)

Từ năm 1978, trung tâm của Little Saigon từ lâu đã là Đại lộ Bolsa. Những người tiên phong như Danh Quách mở một nhà thuốc tây với vốn 37 ngàn đô la và Frank Jao buôn bán nhà cửa. Tên Việt của Frank Jao là Triệu Phát, ông người Việt gốc Hoa ở Hải Phòng, di cư vào Đà Nẵng năm 1954 và theo học lớp về địa ốc tại một trường đại học cộng đồng sau khi tới Mỹ. Ông hiện là chủ nhân nhiều cơ sở thương mại lớn ở Little Saigon, hoạt động từ thiện và là chủ tịch của Quỹ Giáo dục Việt nam (Vietnamese Education Fund). Cũng năm đó, Nhật báo Người Việt nổi tiếng cũng bắt đầu xuất bản từ một tư gia ở Garden Grove.
 
Những người Mỹ gốc Việt mới đến khác đã sớm hồi sinh khu vực bằng cách mở cơ sở kinh doanh của riêng họ tại các cửa hàng cũ trước đây thuộc sở hữu của người da trắng và các nhà đầu tư đã xây dựng các trung tâm mua sắm lớn có nhiều doanh nghiệp kinh doanh. Cộng đồng và doanh nghiệp Việt Nam sau đó đã lan sang Garden Grove, Stanton, Fountain Valley, Anaheim và Santa Ana lân cận.
 
Năm 1988, một biển báo đường cao tốc tắt được đặt trên Xa lộ Garden Grove (Quốc lộ 22) chỉ định các lối ra dẫn đến Little Saigon.
 
Vùng đô thị Washington là một nơi khác được những người nhập cư Việt Nam đến định cư ưa chuộng vì nhiều lý do. Nhiều người Việt Nam trong làn sóng nhập cư đầu tiên có quan hệ với chính phủ hoặc đại sứ quán Hoa Kỳ ở Việt Nam.

Vùng Bắc Virginia nổi lên như một địa điểm thích hợp trong khu vực để tái định cư vì nhiều lý do. Các quan chức Đại sứ quán Mỹ cũ đã hướng những người tị nạn về phía Bắc Virginia, và quận Arlington có các nhà tài trợ như Giáo hội Công giáo. Sau khi làn sóng người nhập cư đầu tiên định cư ở vùng Clarendon, thuộc Arlington phía bên này sông Potomac, đối diện với Washington, DC, các mối quan hệ gia đình và xã hội có sẵn tạo nên mạng lưới để những người nhập cư trong tương lai gia nhập nhóm dân cư này. Lúc đầu, 15% (3.000 người) dân số Việt Nam ở Mỹ cư trú tại khu vực Washington, D.C. và nhiều người khác tham gia sau đó. Các khu vực đông người Việt định cư nhất ở Bắc Virginia là khu phố Clarendon dọc theo Đại lộ Wilson và Columbia Pike, kéo dài về phía tây tới Falls Church và Annandale. Sau đó một thời gian, vì khu Clarendon được chỉnh trang và xây dựng lại sau khi có đường metro đi ngang qua, các cơ sở kinh doanh của người Việt phải dời đi chỗ khác, và nơi đến mới là Trung Tâm Eden, ở khu Seven Corners, thành phố Falls Church, thuộc Fairfax County. Một luật sư người Việt ông Nguyễn Văn Gioan mướn lại một siêu thị Grand Union đã đóng cửa từ lâu, gia đình ông hùn hạp, chia ra làm nhiều ngăn nhỏ cho người Việt thuê. Tên EDEN được chọn vì lý do giản dị là chỉ gồm có 4 chữ cái nên làm bảng hiệu ít tốn kém hơn, theo lời bà Gioan kể lại.
 
Trung tâm Eden
 
Năm 1984, trung tâm mua sắm Eden Center khai trương, mang lại 20.000 sf không gian bán lẻ giá cả phải chăng cho khu vực. Năm 1997, chủ Do Thái lấy lại khu địa ốc này và 32.400 square feet đã được thêm vào Trung tâm Mua sắm Eden, cũng như một tháp đồng hồ mang tính biểu tượng nhắc đến tháp đồng hồ chợ Bến Thành, SaìGòn, một cổng chào và vào thời điểm đó, đây là một trong những khu mua sắm lớn nhất của người Việt ở Hoa Kỳ. Trung tâm Eden trở thành một trung tâm thương mại và hoạt động của người Việt Nam. Năm 2007, "Ra khỏi Sài Gòn, Vào Little Saigon," (Exit Saigon, Enter Little Saigon) một cuộc triển lãm lưu động của Trung Tâm Người Mỹ Gốc Châu Á Thái Bình Dương thuộc viện Smithsonian, trong chuyến lưu hành khắp nước Mỹ trong 3 năm, tạm thời được đặt tại Trung tâm Eden để kể câu chuyện về trải nghiệm di cư và thích nghi của người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Trung tâm Eden hiện nay được coi là nơi tập trung các dịch vụ và hàng hóa của Việt Nam tại Bắc Virginia, cũng như toàn bộ Bờ Đông nước Mỹ. Vào năm 2014, Eden Center là nơi có 120 cửa hàng và nhà hàng, hầu hết đều là của người Việt Nam.

Có những căng thẳng giữa lực lượng cảnh sát của Falls Church, một thành phố nhỏ nhưng giàu có bậc nhất nước Mỹ với chừng 15 ngàn dân, và giới buôn bán ở Trung Tâm Eden. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2011, các đặc vụ liên bang, Cảnh sát Bang Virginia và cảnh sát địa phương đã cùng nhau đột kích vào một số cơ sở kinh doanh ở Trung tâm Eden, thu giữ hơn 1 triệu đô la tiền mặt từ một cơ sở kinh doanh và một lượng nhỏ từ các cơ sở kinh doanh khác. Ngoài ra họ còn thu giữ một số “máy đánh bạc”; và 19 người bị bắt vì tình nghi phạm tội cờ bạc và rượu (gambling and alcohol crimes). Cảnh sát đổ lỗi cho băng đảng “Dragon Family”, một băng nhóm tội phạm người Mỹ gốc Việt hoạt động tại các trung tâm của người Mỹ gốc Á trên khắp Bắc Mỹ. Không có cáo buộc trọng tội (felony) nào được đưa ra, và cuối cùng, mặc dù một số bị cáo đã nhận tội, nhưng nhiều người đã bị hủy bỏ vụ án trước khi xét xử (cases dismissed). Ít nhất một bị cáo đã ra tòa và được tuyên vô tội. Cuộc đột kích đã gây ra căng thẳng giữa các cơ sở kinh doanh của Trung tâm Eden và chính quyền Thành phố Falls Church. Sau cuộc đột kích thứ hai, 5 tháng sau, các nghi phạm đã bị bắt giữ với nhiều tội danh đánh bạc và rửa tiền, nhiều người trong cộng đồng cáo buộc cảnh sát phân biệt chủng tộc và điều tra yếu kém.

Hiện nay khu Eden đóng góp trên một triệu đô la thuế mỗi năm cho ngân quỹ thành phố Falls Church. Thành phố vừa công bố một dự án lâu dài để nâng cấp khu Eden cùng với vùng nhỏ bao quanh. Người Việt địa phương cũng đang tự tổ chức để có tiếng nói mạnh mẽ hơn vào quá trình cải thiện khu phố này đồng thời bảo vệ bản sắc Việt nam cũng như ngăn ngừa đừng để quá trình nâng cấp “gentrification” làm cho các tiểu thương người Việt bị loại bỏ khỏi khu phố này vì giá cả tăng quá nhanh.

Một điểm đáng chú ý đối với vùng Hoa Thịnh Đốn gần thủ đô Mỹ, là khác với những nơi khác như ở Cali, người Việt ở đây chỉ sinh hoạt thương mãi tập trung ở khu Eden; tư gia của họ không quy tụ về một nơi mà họ sống xen kẽ cùng với các sắc dân khác, đặc biệt là người da trắng trong các vùng ngoại ô có tính các cư dân (residential).
 
 

QL: 4. Vừa rồi anh đã nói về sự thành hình của một vài cộng đồng người Việt di dân ở Little Saigon là nơi đông người Mỹ gốc Việt nhất và ở Washington D.C. mà anh đã quen thuộc và định cư đã từ lâu nơi đây. Xin anh cho biết ngoài sự sinh hoạt với cộng đồng của mình, người Mỹ gốc Việt thích ứng như thế nào vào trong xã hội “dòng chính” (mainstream).
 
BS. Hiền:

a. Theo tôi nghĩ, khó khăn lớn nhất của người Việt nhập cư là vấn đề ngôn ngữ, họ không thông thạo tiếng Anh, khiến việc tìm việc làm và giao tiếp với người Mỹ khác rất khó khăn. Một số người Việt đã có vốn liếng nhiều ít về tiếng Anh nhưng đại đa số, nhất là thành phần thuyền nhân không biết nói tiếng Anh. Một trường hợp nổi tiếng là giáo sư Nguyễn Văn Tuấn tại Úc, vượt biên đường biển, lúc mới qua Úc -theo như lời ông vì muốn thấy con kangaroo- phải rửa chén, phụ bếp vì không biết tiếng Anh, nhưng sau này tự học tiếng Anh, lấy bằng tiến sĩ và trở thành một giáo sư y khoa khảo cứu về bệnh loãng xương tại Úc.
 
b. Những người nhập cư Việt Nam cũng phải đối mặt với một số cú sốc văn hóa đáng kể từ sự khác biệt giữa văn hóa (theo nghĩa phong tục, nếp sống) Mỹ và Việt Nam. Những người sống ở các bang như Pennsylvania, New York đặc biệt gặp khó khăn trong việc thích nghi vì khí hậu lạnh giá của vùng Đông Bắc nước Mỹ khác biệt rõ rệt với khí hậu nhiệt đới của Việt Nam.
 
c. Một vấn đề khác đối với người Việt Nam là việc các chuyên gia Mỹ từ chối công nhận chứng chỉ hoặc bằng cấp của Việt Nam (cũng như Châu Á), khiến những người có học không có việc làm. Điều này cùng với trình độ tiếng Anh hạn chế đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp của người Việt di cư trong những năm sau 1975.

Tuy nhiên, phải công nhận là có những cơ chế giúp người tỵ nạn trở lại nghề nghiệp của mình, đặc biệt là ngành y, nha, dược; hầu hết những người có bằng cấp từ Việt Nam sau thời gian học tiếng Anh, tái huấn luyện hoặc huấn luyện thêm về chuyên môn họ đều có cơ hội hành nghề lại ở Mỹ, Canada, Pháp và do đó tạo một tầng lớp chuyên môn với trình độ cao, không những cho ngành y tế của Mỹ nói chung, mà một số lớn phục vụ cho các cộng đồng Việt nam đang thành hình. Các thành viên chuyên môn ở lại với cộng đồng và phục vụ riêng cho cộng đồng thiểu số Việt là một trường hợp ít thấy trong các cộng đồng thiểu số khác như người Mỹ gốc Châu Phi, người gốc Châu Mỹ la tinh.
 
d. Một trong những vấn đề lớn nhất mà người Mỹ gốc Việt vẫn gặp phải ngày nay là tìm kiếm sự cân bằng giữa việc giữ di sản và truyền thống Việt Nam cùng với việc cố gắng thích nghi với văn hóa Mỹ để họ có thể thành công trong môi trường mới.

Việt Nam trên lý thuyết là một xã hội truyền thống gia trưởng, theo luân lý “Khổng Mạnh”, Mỹ thì không hẵn như vậy. Phong cách nuôi dạy con giữa cha mẹ Việt Nam và cha mẹ Mỹ có sự khác biệt đáng kể, khiến phụ huynh Việt nam có thể gặp những khó khăn với chính quyền sở tại, như việc đánh đập con cái để dạy dỗ (“thương cho roi cho vọt”), buộc con cái vâng lời cha mẹ tuyệt đối (“cá không ăn muối cá ươn”), ít tham gia vào sinh hoạt hội phụ huynh, có thể thích dùng thuốc men truyền thống, chọn dâu rễ người Việt… Có thể nói rằng người Mỹ gốc Việt và nhất là con cái của họ cảm thấy như họ sống ở hai thế giới khác nhau cùng một lúc, thế giới ở nhà và thế giới đi làm, đi học của người Mỹ.

Đó là những gì xảy ra trước đây khá lâu. Hiện nay, cục diện thế giới hoàn toàn khác máy chục năm trước, thế hệ tỵ nạn đã dần dần được thế hệ 1.5 và 2, 3 thay thế. Các dị biệt về ngôn ngữ và văn hóa phai nhòa đi nhiều, có chăng phần lớn còn tồn tại ngay trong nội bộ cộng đồng hay gia đình giữa những người Việt già và những người Mỹ gốc Việt trẻ. Ngay cả cái gọi là “văn hóa Mỹ dòng chính” cũng đang bị thách thức với trào lưu mới về đa nguyên hay đa dạng (diversity), công bằng (equity) và bao gồm (inclusivity) của một xã hội hướng về đa văn hóa.

Từ đó, chúng ta bàn đến việc bảo vệ di sản thay vì tham gia dòng chính.
 
Dù biết ít hay nhiều tiếng Việt, nói chung thế hệ diaspora trẻ càng lúc càng muốn tìm hiểu về nguồn gốc chủng tộc và văn hoá và di sản của mình và dùng những vốn liếng này để tạo một chỗ đứng riêng của mình trong môi trường xã hội Tây phương mới không chỉ có một dòng chính mà gồm nhiều dòng chảy song song với nhau.
 
e. Mặc dù công chúng Mỹ nói chung phản đối việc người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ, nhưng chính phủ đã ban hành một số chính sách giúp đỡ người tị nạn trong những năm sau 1975. Đạo luật quan trọng đầu tiên được thông qua là Đạo luật về Người tị nạn năm 1980, được tạo ra để đối phó với số lượng ngày càng tăng người tị nạn đến từ Đông Nam Á vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Đạo luật này xác định chính xác ai có thể được phân loại là người tị nạn. Đạo luật cũng quy định việc nhập quốc tịch cho người tị nạn. Sau một năm sống ở Hoa Kỳ, những người tị nạn được phân loại là công dân thường trú. Sau 5 năm ở Mỹ, người tị nạn có thể nộp đơn xin quốc tịch. Người nhập cư Việt Nam đã tận dụng lợi thế đáng kể này, thể hiện qua thực tế là người nhập cư Việt Nam có tỷ lệ nhập quốc tịch cao nhất so với các nhóm nhập cư khác. Số liệu này cho thấy người Việt nhập cư vào thời điểm này chưa có ý định trở về quê hương của họ và Mỹ là quê hương mới của họ (mặc dù cho tới nay nhiều người viết hải ngoại vẫn gọi Mỹ là đất “tạm dung”).
 
f. Thích ứng với thời tiết: Mặc dù đa số người Việt từ đầu hay sau một thời gian đến định cư tại các tiểu bang ấm áp như Cali, Texas, Florida, sau gần 50 năm đa số đã thích ứng với phong thổ địa phương, nếp sống 4 mùa, nhà có máy điều hòa không khí. Phần lớn con cái của họ đều than phiền Việt Nam quá nóng lúc trở về.
 
Ngày nay, người Mỹ gốc Việt nói chung thành công hơn và được chấp nhận nhiều hơn so với những năm 1970 và 1980. Người Việt đã tạo ra những cộng đồng văn hóa để hỗ trợ lẫn nhau ở các trung tâm đô thị, đặc biệt là ở California. Nhóm này cũng đã vươn lên dẫn đầu về kinh tế và chính trị trong những năm gần đây, thu hút sự chú ý trên mức độ quốc gia. Người Mỹ gốc Việt đã giữ chức vụ công ở các vị trí như thị trưởng, dân biểu, ủy viên hội đồng thành phố và tổng chưởng lý. Một giáo sư tiến sĩ gốc Việt, Bác sĩ Đặng Văn Chí, từng là phó hiệu trưởng trường Y khoa Johns Hopkins danh tiếng.

Theo Viện Chính sách Di cư, hiện có hơn 2 triệu cư dân Hoa Kỳ sinh ra ở Việt Nam hoặc báo cáo có nguồn gốc hoặc tổ tiên Việt Nam. Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đã có những đóng góp đáng kể cho xã hội Hoa Kỳ, đặc biệt là trong thế giới văn học với sự nổi lên của các nhà văn người Việt hải ngoại như Viet Thanh Nguyen (giải Pulitzer văn chương với cuốn tiểu thuyết The Sympathizer), Nguyen Phan Que Mai (tiểu thuyết lịch sử The Mountains Sing), Monique Truong (văn sĩ, luật sư) và Ocean Vuong.
 
Theo thời gian, cộng đồng người Việt hải ngoại đã đạt được trình độ học vấn cao và thành công về kinh tế. Theo dữ liệu từ Trung tâm nghiên cứu Pew, 22% người Mỹ gốc Việt đã đạt được bằng cử nhân và 10% đã đạt được bằng sau đại học. Thu nhập hộ gia đình trung bình hàng năm của người Mỹ gốc Việt là $85.800.
 
 
QL: 5. Xin anh cho biết trong nhận xét của anh, làm thế nào mà người Việt di cư thích nghi nhanh chóng với văn hóa Mỹ mà vẫn giữ được bản sắc của họ?
 
BS. Hiền: Người nhập cư Việt Nam đã thích nghi nhanh chóng với văn hóa Mỹ. Dưới đây là một số yếu tố quan trọng nhất đã góp phần vào thành công của họ:
 
a. Tính cần cù (“đạo đức lao động” mạnh mẽ/ strong work ethic).
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác.

b. Ý thức cộng đồng mạnh mẽ.

Người nhập cư Việt Nam có xu hướng sống rất gần gũi với nhau. Họ hình thành mối liên kết chặt chẽ với gia đình, bạn bè và hàng xóm. Ý thức cộng đồng này đã giúp họ vượt qua những thách thức của việc nhập cư và xây dựng cuộc sống mới cho chính họ ở Mỹ.

c. Hiếu học:.

Người nhập cư Việt Nam thích tìm hiểu về văn hóa Mỹ và thích nghi với môi trường xung quanh mới. Họ tham gia các lớp học, tham dự hội thảo và đọc sách để tìm hiểu về phong tục và giá trị của Mỹ. Tinh thần ham học hỏi này đã giúp họ hòa nhập vào xã hội Mỹ và đạt được thành công.
 
d. Ý thức mạnh mẽ về bản sắc. Người nhập cư Việt Nam tự hào về di sản và văn hóa của họ. Họ quyết tâm giữ gìn bản sắc và truyền lại cho con cháu. Ý thức mạnh mẽ về bản sắc này đã giúp họ duy trì truyền thống văn hóa của mình đồng thời thích nghi với văn hóa Mỹ.

Chúng ta để ý là unicode giúp viết tiếng Việt là do một người Việt hải ngoại phát minh. Các trang mạng, blog, youtube nhan nhãn của người Việt hải ngoại. Các sách báo cũ của VNCH đều được in lại lúc ban đầu, nay được số hóa trên mạng (vd Tự lục văn đoàn, báo Bách Khoa)
 
e. Ngoài những yếu tố này, người nhập cư Việt Nam cũng được hưởng lợi từ sự hỗ trợ của một số tổ chức, bao gồm nhà thờ, trường học và các nhóm cộng đồng. Các tổ chức này đã giúp những người nhập cư Việt Nam tìm được việc làm, học tiếng Anh và thích nghi với cuộc sống ở Mỹ.
 
f. Vai trò phụ nữ:

Có những khác biệt giữa tình trạng phụ nữ tại Mỹ và Á Châu, và chỉ trong nội bộ Á Châu, cũng lại có những khác biệt rất lớn giữa các vùng hay các nước. Một ví dụ rõ ràng nhất là các hoạt động ngoài xã hội và cơ hội giáo dục rất giới hạn của phụ nữ Afganistan hiện nay và phụ nữ ở Indonesia trong lúc hai nước đều đa số Hồi giáo. Về phương diện lịch sử, trong xã hội vùng Đông Nam Á người phụ nữ có vai trò lớn hơn là ở Trung Quốc hay Đông Á như Nhật và Korea. Một lý do được đưa ra là chế độ mẫu hệ từng hiện diện trong lịch sử Đông Nam Á, thay vì vai trò độc tôn của chế độ phụ hệ (Khổng giáo). Bà Trưng, Bà Triệu, Đô Đốc Tây Sơn Bùi Thị Xuân là những nhân vật tiêu biểu cho vai trò đáng kể người phụ nữ trong lịch sử Việt Nam. Về tình hình Việt Nam hiện nay, một bài phân tích của Quỹ tiền tệ Quốc Tế cho thấy tỷ số phụ nữ Việt Nam đi làm thuộc loại cao nhất thế giới. Chiến tranh Việt Nam đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh về dân số nam so với dân số nữ, đặc biệt ở nhóm tuổi trưởng thành. Khi nền kinh tế bắt đầu phát triển sau khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới vào năm 1986, nguồn cung lao động sẵn có chủ yếu là nữ, và không có gì ngạc nhiên khi số lượng phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động ngày càng nhiều. Cải cách Đổi Mới mang lại tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, mở cửa nền kinh tế cho thương mại và dẫn đến đô thị hóa nhanh chóng. Trong khi vẫn còn một tỷ lệ lớn lực lượng lao động nữ tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp, thì lao động nữ làm công ăn lương ngày càng tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực dịch vụ lớn và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Riêng đối với phụ nữ Việt hải ngoại, ngoài truyền thống lịch sử nói trên của phụ nữ Đông Nam Á, họ từng thay thế hay phụ chồng phải đi lính giữ trách nhiệm nuôi sống gia đình, dạy dỗ con cái trong thời chiến tranh, nuôi chồng đi cải tạo, tổ chức vượt biên, lén lút buôn bán chợ trời trong nên kinh tế “bao cấp”, ngăn sông cấm chợ, cho nên họ rất linh động, thích ứng nhanh với hoàn cảnh và có khả năng sống còn cao. Một ví dụ điển hình là Bà Khúc Minh Thơ, người sáng lập Hội Tù Nhân Chính Trị và đã vận động từ ngành ngoại giao cũng như lập pháp Mỹ để đưa tới chương trình H.O. đem các người cựu tù cải tạo và gia đình họ qua Mỹ. Một ví dụ khác là kỹ nghệ làm móng ở Mỹ hiện nay đáng giá hàng tỷ đô la, phần chính là do các bà Việt nam gầy dựng nên từ những ngày mới đến Mỹ được một nữ diễn viên điện ảnh Mỹ giúp đỡ.
 
g. Nhờ những yếu tố này, người nhập cư Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho xã hội Hoa Kỳ. Giờ đây, chúng là một phần quan trọng trong kết cấu của Mỹ và chúng tiếp tục ghi dấu ấn trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
 
Những người Việt tỵ nạn qua Mỹ sớm (1975) và những người đến Mỹ sau có thể có những cuộc sống và cái nhìn khác nhau. Minh Tường, một bác sĩ rời Việt Nam khoảng 1980, trong bài “Một thủa Sàigòn” (viết năm 1988) được đăng trên bản tin Mùa Hè 2022 của Hội Y Tế Hoa Kỳ Florida, đã viết về cảm giác của mình lúc viếng Little Saigon ở California như sau:

“...những người bạn, nhờ qua sớm, nên bây giờ thành công và là những công dân Mỹ mới, vênh váo, hợm hĩnh, dương dương tự đắc, quên hẳn (hay muốn quên?) bạn bè cũ “quê mùa”, nhiều chất Việt Nam quá. Số nhỏ này làm tôi buồn, một nỗi buồn man mác, không thể nói hết được. Tôi biết những người bạn cao ngạo của tôi bây giờ, đã ra đi vào những ngày cuối tháng tư 75. Họ hoàn toàn không hiểu, không nếm mùi những gì đã xảy ra từ sau tháng tư năm đó ở quê nhà. ”

Sự khác biệt giữa những người đến Mỹ qua những đợt cách nhau mấy chục năm lại càng lớn hơn nữa. Những người trẻ ở Mỹ qua ngã hôn nhân hay du học không từng sống qua trải nghiệm của người tỵ nạn hay thuyền nhân trước đây và có thể không hiểu những gian khổ của lúc ban đầu xây dựng của diaspora trước khi có chỗ đứng trong cộng đồng các dân tộc Hiệp chủng quốc như hiện nay.
 
g. Một vấn đề khá tế nhị trong việc gia nhập dòng chính là hôn nhân dị chủng.

Trong các gia đình mà chủ hộ là người Việt nhập cư ở Mỹ, 91.6% vợ hay chồng là người Việt, 4% là người châu Á (inter-Asian), 4% là người da trắng. Tỷ lệ này cao nhất trong các nhóm Á Châu, cao hơn người Hoa một chút (90%) nhưng cao hơn người Nhật nhiều (66% có vợ hoặc chồng Nhật, nhưng 18.7% chồng hoặc vợ da trắng).

Đàn ông Việt nói chung (nhập cư hoặc sinh tại Mỹ) đa số lấy vợ người Việt (92.6%), bằng người Ấn (92.5%), người Hàn quốc (90.4%), và người Phi (85.1%) một chút, cao hơn người Nhật (62.8%) nhiều.

Nhưng phụ nữ có chồng Việt (84.6%) ít hơn là đàn ông có vợ Việt. Tuy nhiên phụ nữ Việt có chồng cùng gốc gác (Việt) nhiều hơn phụ nhữ gốc Á châu khác, nhất là Nhật (44.4%), chỉ thua Ấn Độ (92.9%).

Nhưng nếu chỉ xét đến những cặp vợ chồng mà cả hai người đều được sinh ra (US born) hay lớn lên ở Mỹ (US raised) thì có nhiều khác biệt. 59% đàn ông lấy vợ Việt, và chỉ 40.9% các cô Việt có chồng cùng xứ gốc (ít hơn phụ nữ Nhật, Trung Hoa, Ấ́n Độ, chỉ nhiều hơn phụ nữ Phi 29% và Hàn Quốc 24%).

Đa số các cô “US Born+US Raised” lấy chồng “ngoại quốc”, phần lớn là người da trắng (41.3) hay người Á Châu khác (12.2%). Như vậy, cô dâu Việt sinh ra hay lớn lên tại Mỹ lấy chồng Mỹ trắng nhiều hơn là lấy thanh niên gôc Việt.

Cô dâu sanh tại Mỹ lấy chồng Việt chỉ trong 38% trường hợp, 35% lấy chồng da trắng.

Chỉ 51% chú rể sanh tại Mỹ có vợ gốc Việt, nếu cả hai đều sanh tại Mỹ, chúng ta không biết số đối với người về VN lấy vợ như thế nào.
 
Kết luận: Trong lãnh vực hôn nhân dị chủng, tình hình đang thay đổi nhanh, càng ngày càng có nhiều cô dâu Việt kết hôn với người khác chủng tộc hay khác dân tộc. Đối với Mỹ, từ thế hệ 1 (nhập cư), qua thế hệ 1.5 (sinh tại VN, lớn lên tại Mỹ), qua thế hệ 2 (sinh tại Mỹ), tỷ lệ lấy người cùng gốc Việt càng ngày càng thấp. Kết quả của những nghiên cứu thống kê thực hiện cách đây mười năm cho thấy đối với những người sinh tại Mỹ, đàn ông chỉ lấy vợ gốc Việt trong quá nửa trường hợp, các phụ nữ (thế hệ 2) chỉ lấy chồng gốc Việt trong hơn một phần ba các trường hợp. Có lẽ khuynh hướng này sẽ càng ngày càng gia tăng. Mẫu số chung cho giới trẻ sẽ là tiếng Anh, văn hóa Mỹ nói chung và giáo dục Mỹ; những yếu tố này sẽ lấn ép yếu tố nguồn gốc chủng tôc, văn hóa, truyền thống gia đình hay sự ưa thích của cha mẹ muốn có người dâu rễ cùng nguồn gốc dễ đối thoại, thông cảm hơn. Có lẽ thế hệ đi trước cần tìm hiểu học hỏi thêm về quê hương mới để có thể đối thoại và vui sống với các thế hệ sau.
 
 
QL: 6. Nếp sống đa thế hệ có phải là một trong những cách thích ứng vào hoàn cảnh hiện tại?
 
BS. Hiền: Xu hướng sống đa thế hệ hiện nay đang gia tăng ở Mỹ:

Theo một báo cáo tháng 3 năm 2022 của Pew Research Center (Mỹ), cuộc sống đa thế hệ đã phát triển mạnh mẽ ở Hoa Kỳ trong 5 thập kỷ qua và không có dấu hiệu nào cho thấy chiều hướng này đã đạt đến đỉnh điểm. Khi được hỏi tại sao lại sống chung một nhà với người thân, người Mỹ thường đưa ra những lý do thực tế liên quan đến tài chính hoặc việc chăm sóc người già hay săn sóc trẻ em trong gia đình (adult caregiving, child care.). Nhưng trải nghiệm sống chung cũng có một thành phần cảm xúc, tình cảm. Khoảng một phần tư người lớn trong các nhà đa thế hệ nói rằng cuọc sống luôn luôn hoặc gần như luôn căng thẳng và hơn một nửa thì cho rằng sống chung như vậy gần như luôn luôn hoặc luôn luôn bổ ích.
 
● Trong các hộ đa thế hệ (gồm 18% dân số Mỹ), tỷ lệ người da trắng thấp nhất (13%) so với các nhóm sắc dân khác (Á châu 24%). Người sanh tại ngoại quốc ở hộ đa thế hệ (26%) nhiều hơn người sanh tại Mỹ (17%).
● Số di dân Á châu và người Hispanic gia tăng nhanh, và giống như người Mỹ da Đen các nhóm này có khuynh hướng sống chung nhiều thế hệ hơn là người Mỹ trắng.
● Người trẻ (25-29 tuổi) bây giờ đi học lâu hơn và sống chung nhà với cha mẹ nhiều hơn trước, trai nhiều hơn gái.
● Người sống nhà đa thế hệ tương đối ít bị nghèo hơn người sống kiểu khác; họ được che chở đùm bọc ví dụ lúc thất nghiệp. Thu nhập càng thấp thì hiệu ứng có lợi về tài chánh càng rõ; người thu nhập cao thì thấy ít hơn cái lợi về tài chánh trong việc sống chung và họ thường coi chuyện sống chung chỉ tạm thời.
 
Tóm lại, trong cách sống giữa các thế hệ, cũng giống như trong cách ăn uống, người nhập cư chúng ta, từ những nền văn minh xưa cũ, truyền thống, đang dần dần ảnh hưởng và biến đổi “nếp sống Mỹ” theo những chiều hướng không xa lạ với chúng ta trong quá khứ.

Ngược lại, sau khi gần nửa thế kỷ sống trong xã hội nặng về cá nhân chủ nghĩa của Tây phương, lúc thế hệ di dân đầu tiên bắt đầu già yếu và không còn có khả năng sống độc lập, thế hệ thứ hai bị kìm hãm giữa nhu cầu của người già cha mẹ ông bà và đòi hỏi của lớp trẻ con cái mình, cuộc sống đa thế hệ có thể trở thành một giải pháp quyến rũ cho một số người Việt trung niên, vừa giúp giải quyết vấn đề kinh tế trong thời buổi nhà cửa đắt đỏ, vật giá không ngừng tăng, vừa đem lại sự ấm áp và cảm giác an toàn trong một xã hội Mỹ đang biến động và bất ổn do dịch bệnh, kỳ thị chủng tộc và bất ổn kinh tế.
 
QL: - Chương trình VHV sắp chấm dứt. Xin cảm ơn BS. Hiền đã trình bày đề tài một cách rất nghiêm túc và sâu sắc. Xin mời BS. Hiền lên tiếng chào tạm biệt quý thính giả của đài SGH. Mong rằng trong tương lai xin sẽ được tái ngộ với BS. trong chương trình Văn Hóa Việt.
 
BS. Hiền: - Kính chào quý thính giả đài SGH và cảm ơn chị Quý Linh cho tôi cơ hội để trình bày đề tài này.
 
QL: - Xin kính chào BS. Hồ Văn Hiền. Cảm ơn quý thính giả đã theo dõi chương trình hôm nay. Xin hẹn gặp lại quý vị trong chương trình lần tới.