MỘT SỐ
Ý KIẾN VỀ VIỆC GIÚP CHO
TRẺ EM VIỆT CÓ KHẢ NĂNG SONG NGỮ
BS. Hồ Văn Hiền
Chúng tôi bắt đầu hành nghề bác sĩ nhi khoa
trong cộng đồng Việt nam vùng Washington từ năm 1986. Mười mấy
năm qua cho chúng tôi
được cơ hội quan sát một số đông trẻ con tăng trưởng
nhanh hơn thế hệ cha mẹ chúng và trở thành những thanh niên
bước vào ngưỡng cửa của đại học hoặc hôn nhân.
Ðối với cha mẹ các cháu, phần đông chúng ta
thỏa mãn với đứa con được sinh trưởng trong một xã hội
trù phú, đầy đủ về vật chất cũng như về
phương tiện học vấn. Nổi thất vọng cũng không phải là hiếm.
Một số không nhỏ trong chúng ta, sau bao năm hy sinh dồn hết
sinh lực và tài chánh nuôi dưỡng cho đứa con, bỗng nhiên
thấy mình phải đối diện với một kẻ xa lạ khi chúng lớn
lên, ly khai và đòi quyền tự trị của nó. Hố sâu ngăn cách
cha mẹ và con cái ở hải ngoại, ngoài hố sâu giữa các thế
hệ, quan trọng hơn hết vẫn là khoảng cách văn hóa. Trong
lãnh vực này có thể xem ngôn ngữ có vai trò quyết
định nhất.
Tiên học lễ hậu học văn.
Khả năng
dùng tiếng Việt, cũng a?h hưởng đến thái độ, phong thái
của trẻ con gốc Việt, và cũng do đó đứa trẻ cũng
được đánh giá hoàn toàn khác dưới mắt người lớn.
Những yếu
tố sau đây có thể giải thích phần nào sự khác biệt này.
Có thể những trẻ nói được tiếng mẹ đẻ được cha mẹ,
ông bà, anh chị dành nhiều thì giờ sinh hoạt với chúng hơn
những trẻ khác chỉ nói được tiếng Anh nhờ đi nhà trẻ và
xem truyền hình. <<Thì giờ có chất lượng>> đó
(quality time) không bắt buộc phải là lúc cháu phải ngồi yên
nghe cha mẹ dạy đánh vần hoặc giảng bài luân lý, lịch sử
Việt nam. Thì giờ quí báu đó cũng có thể là lúc mẹ hát
một câu ca dao ngàn đời để dỗ em ngủ, có thể là một mẫu
chuyện nhỏ trên bàn ăn, bàn về một thái độ cư
xử nào đó, nặng về tình nhẹ về lý theo lối sống nhiều
tình cảm của người Việt. Hoặc có thể lúc ông bà
la rầy cháu nhỏ về
một lỗi lầm trong xưng hô, thưa gởi với người
lớn. Hoặc lúc cậu bé có cơ hội thực tập tiếng Việt và
khả năng song ngữ của mình, đồng
thời hấp thụ phần nào ??túi khôn?? của thế hệ trước
lúc cháu dịch cho bà ngoại nghe những gì xảy ra trên màn ảnh
truyền hình Mỹ.
Song ngữ có làm trẻ dốt tiếng Mỹ ( tiếng Anh)
không?
Một số
thầy giáo hoặc cô giáo Mỹ cho rằng trẻ không giỏi tiếng Mỹ
vì ở nhà nói tiếng Việt. Sự thật về vấn đề nay không
giản dị như nhiều người tưởng.
Ðành rằng nếu trẻ nói tiếng Việt hoặc một thứ tiếng
mẹ đẻ nào đó ở nhà, thời gian mà cháu dùng tiếng Anh
tất nhiên ít hơn những trẻ hoàn toàn dùng tiếng Mỹ, trong
một gia đình mà tiếng Mỹ là tiếng mẹ đẻ. Chúng ta nên để
ý điểm này, vì dù chúng
ta bắt buộc hoặc cố gắng dùng
tiếng Mỹ hoàn toàn trong gia đình Việt nam chúng ta, môi trường
ngôn ngữ về tiếng Mỹ này khó mà so sánh được với môi
trường tiếng Mỹ trong gia đình người Mỹ.Tại sao?
Vì chúng
ta là thế hệ đầu tiên định cư ở xứ này, hầu hết chúng
ta đều gặp khó khăn với tiếng Mỹ. Phần đông chúng ta suy
nghĩ bằng tiếng Việt rồi tìm chữ dịch ra tiếng Mỹ. Từ những
chuyện sơ đẳng hằng ngày như biết tên các
món ăn, tả các triệu chứng như nóng lạnh, ê mình, bón..
lúc đi khám bác sĩ, những bài hát trẻ con, những tiếng con
nít thường dùng, lắm khi chúng ta phải học từ đầu, học từ
thực tế hàng ngày, vì ít có sách nào dạy
những thứ ngôn ngữ bình dân nhưng rất cần thiết này. Ðôi
khi chúng ta gặp khó khăn với những chữ, lối nói rất thường
mà trẻ con dùng một cách hồn nhiên vì chúng đã là người
bản xứ. Về phát âm, tiếng Việt mang những âm hưởng khác
xa tiếng Mỹ, ảnh hưởng nhiều đến giọng
nói tiếng Mỹ của chúng ta. Trừ một số trường hợp ngoại
lệ, đối với phần đông chúng ta, nói tiếng
Mỹ tới mức lưu loát được cũng thật khó thực hiện.
Cho nên, đối
với phần đông cha mẹ Việt nam, có lẽ dùng tiếng Mỹ để
giảng dạy cho con về những vấn đề phức tạp hơn như văn hóa,
luân lý và truyền thống gia đình e khó lòng thực hiện
được. Về phần đứa trẻ chắc cũng khó thuyết phục
được đứa bé vì cha mẹ đang dùng tới cái sở đoản là
cái tiếng Mỹ của mình mà bỏ qua sở trường là tiếng Việt..
Vậy có cần phải nói tiếng Mỹ với con cái
không?
Một tài liệu do
ban học vụ quận Fairfax phổ biến trích dẫn K. Hakuta như sau:
<<Phụ
huynh nên nói thứ tiếng mà mình cảm thấy thoải mái nhất để
tạo một môi trường ngôn ngữ dồi dào ở nhà. Theo các
cuộc nghiên cứu mới đây về hậu quả của thuyết song ngữ
về sự tiến bộ học tập của học sinh kết luận là khi học
sinh duy trì khả năng nói ngôn ngữ thứ nhất (tiếng mẹ đẻ)
của các em, các em chuyển kỹ năng này sang việc học ngôn ngữ
thứ hai; thực vậy, sự thông thạo về tiếng mẹ đẻ là một
yếu tố tiên đoán mạnh mẽ sự phát triển nhanh chóng của
ngôn ngữ thứ hai.>>
Ðược cơ
hội quan sát tận mắt sự tiến triển của các em sau nhiều năm,
chúng tôi lại càng đồng ý với lời khuyến cáo trên. Ngay
những đứa trẻ đến ba bốn tuổi mới bắt đầu học tiếng
Mỹ ở trường, dù là phải học ESL lúc đầu, nếu chúng
nói giỏi tiếng Việt, sau này chúng vẫn giỏi tiếng Mỹ như thường,
có khi còn hơn các trẻ Mỹ.
Thuyết
cho rằng đầu óc đứa trẻ chỉ bấy nhiêu chỗ, học nhiều thứ
tiếng làm thứ tiếng này lấn chỗ thứ tiếng kia là một
thuyết quá đơn giản chưa được chứng minh là đúng. Khả năng
của bộ óc chúng ta quá rộng lớn để có thể bị ảnh hưởng
bởi sự học hỏi thêm một ngôn ngữ.
Bộ
óc song ngữ làm việc như thế nào?
Có những
khảo cứu cho rằng ngôn ngữ mẹ đẻ được một trung tâm
riêng biệt trong bán cầu não trái là bán cầu trội (dominant
hemisphere) điều khiển. Các ngôn ngữ khác do một hay nhiều
trung tâm biệt lập ở bán cầu não bộ bên phải phụ trách.Thuyết
này là thuyết lưỡng hệ thống (dual system hypothesis).
Tuy nhiên
những nghiên cứu gần đây lại cho thấy thực tế không giản
dị như vậy, đúng hơn các phần não phụ trách các ngôn ngữ
khác nhau có thể đều ở bên óc trái (là bán cầu não trội-dominant
hemisphere), trong đó một nhóm tế bào thần kinh (neuron) có thể
chuyên về một ngôn ngữ nào đó, một số các tế bào thần
kinh khác có thể làm việc chung cho cả hai
ngôn ngữ mà một người song ngữ dùng được..Ðây
là thuyết subset hypothesis của Paradis.
Nói
chung, cho đến nay những khảo cứu cho thấy người có khả năng
dùng nhiều thứ tiếng phát triển thêm được những vùng
trong óc mà người dùng một thứ tiếng không có.
Trẻ con
ở xứ khác có cần phải song ngữ không?
Trước đây ở Việt nam, ông cha chúng ta vẫn
đọc và viết chữ Hán cùng với nói tiếng Việt và đọc
chữ Nôm. Sau đó chúng ta vẫn dùng tiếng Pháp song song với
tiếng Việt trong nhiều năm. Nhiều xứ khác như Ấn độ,
Canada, Thụy sĩ, Bỉ vẫn dùng nhiều thứ tiếng
hoặc nhiều thứ tiếng địa phương (dialect) khác
nhau song song với ngôn ngữ chính thức mà con cái họ vẫn giỏi
như thường. Phải công nhận có chia rẽ và nhiều sự đối
chọi gây ra giữa những người gốc gác khác nhau. Như người
Canada gốc Pháp thì muốn giữ tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính
tại Quebec, hạn chế ảnh hưởng tiếng Anh. Trường hợp chúng
ta không giống như vậy, chúng ta chỉ muốn thế hệ trẻ biết
thêm tiếng Việt ngoài tiếng Mỹ là tiếng chính (dominant
language) trong xã hội, chúng ta chắc chắn không ai có tham vọng
tạo một thế hệ dùng tiếng Việt là ngôn ngữ chính ở Hoa
kỳ.
Lịch
sử cho thấy rồi ra tất cả các nhóm di cư đều bị đồng
hóa nói tiếng Mỹ hết, sau một hoặc nhiều thế hệ, làm chi cho mệt?
Thật vậy,
do thói quen và do áp lực văn hóa kinh tế, không bao nhiêu dân
thiểu số giữ được sinh hoạt văn hóa đáng kể tại Mỹ. Ví
dụ, người gốc Ðức định cư đông đảo ở Pennsylvania và
có sinh hoạt văn hóa Ðức rất cao trước thế chiến thứ
nhất. Tuy nhiên với chiến tranh giữa Mỹ và Ðức, họ phải
thu mình lại vì bị kỳ thị nên báo chí Ðức càng ngày càng
đóng cửa và trẻ con không dám nói tiếng Ðức công khai
ngoài đường.
Với cục
diện thế giới hiện nay, nhất là với điện thoại viễn liên,
vệ tinh truyền thông, Internet, có lẽ chúng ta sẽ thoát khỏi
những gò bó các giống dân khác đã phải chịu và hy vọng
tiếng Việt ở hải ngoại sẽ phát triển mạnh.
Tại
sao không học tiếng Tàu, tiếng Nhật được nhiều người dùng
mà cũng giúp ta
hiểu văn hóa Á Ðông?
Tiếng
Trung hoa và tiếng Nhật chắc chắn có tầm quan trọng trên thế
giới ngày nay. Tuy nhiên do lối chữ viết không theo mẫu tự
La mã (Vần abc), khó học hơn tiếng Việt nhiều và không dùng
dễ dàng trong các phương tiện tin học mớI như computer, Internet
như tiếng Việt. Có một số học giả cho rằng, lần hồi các
ngôn ngữ này sẽ từ bỏ các lối viết theo Hán tự để dùng
chữ alphabet như chúng ta. Họ
cũng cho rằng chữ quốc ngữ của chúng ta là một thành công
rất lớn về ngữ học mà ít người để ý tới, mặc dù
chúng ta còn trở ngại trên Internet nhiều vì có quá nhiều dấu
(sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã).
Tóm lại, học tiếng Việt
dễ hơn nhiều, và hơn nữa vì đây là tiếng của
chúng ta.
Song
ngữ và song (lưỡng) văn hóa (biculturalism)
Ðối
với trẻ con Việt ở Mỹ học thêm tiếng Việt, ngoài việc nói
được hai thứ tiếng,
chúng còn quen thuộc với hai nền văn hóa khác nhau. Chúng biết
thưa gởi, biết lúc nào là dạ, lúc nào là ừ, ai là bác,
ai là chú, chị em, chứ không phải cứ <<you, me>>
được thì <<mày, tao >>tuốt. Chúng biết khoảng cách
các vai vế trật tự xã hội, có thể góp phần nào tránh
được những khuynh hướng loạn luân dễ xảy
ra ở xứ này nếu cha con, mẹ con, thầy trò, trẻ già đều
xưng hô ngang nhau bằng first name, nếu không cẩn thận dịch ra là
mày tao hết.
Ở trình
độ cao hơn, nếu người thiếu niên hấp thụ được những ý
niệm phức tạp hơn về thuật xử thế hay về
nhân sinh quan như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hay công dung ngôn
hạnh.. thì lại càng tốt cho sức khỏe tinh thần của chúng.
Chúng ta ai cũng biết rằng trường học Mỹ không có nhiệm vụ
rao giảng luân lý vì nhóm này không muốn đụng chạm tự do
tín ngưỡng nhóm kia và gia đình phải chủ động trong vấn đề
này.
Việt
nam xa xôi, có cần học tiếng Việt để biết về Việt nam không?
Cho đến những năm gần đây, người Mỹ hầu
như không bao giờ phải nói tiếng nước khác. Có người còn
diễu cợt rằng người nào nói nhiều thứ tiếng thì chỉ giỏi
đi làm bồi bàn. Họ có khuynh hướng coi thường người song
ngữ vì phần đông không nói tiếng Mỹ đúng tiêu chuẩn và
vì họ mới qua Mỹ định cư, địa vị xã hội và kinh tế còn
khiêm nhường.
Người
Mỹ chỉ thường trọng tiếng Pháp và nói được một vài chữ
tiếng Pháp, đọc theo giọng Mỹ. Nếu chúng ta không hướng dẫn
con cái, chúng cũng sẽ có thái độ thiển cận, sai lạc trên
đối với tầm quan trọng của các ngôn ngữ không phải tiếng
Mỹ..
Hiện nay,
do việc thế giới bị thu nhỏ lại qua các phương tiện truyền
thông và chuyên chỡ hiện đại, người Mỹ đã thức tĩnh
và rất chú ý học hỏi các nền văn hóa khác. Trong chuyên
chởvùng Washington, những lớp trong chương trình
<<immersion program>> dạy trẻ con da trắng Mỹ học tiếng
Nhật lúc ở tiểu học, ngay trước khi chúng học tiếng Mỹ,
suốt ngày <<đắm mình>> trong văn hóa Nhật. Cũng như
Nhật, Việt nam là một trong những nước có đông dân và văn
hiến lâu đời ở Á châu. Vậy thì chúng ta, nếu có phương
tiện, cho đứa bé con của mình,với dòng máu Việt, đắm mình
trong ngôn ngữ của cha ông, trong cách suy nghĩ Việt nam, trong lề
lối phong tục Việt nam thì chắc hẳn không có gì mà phải e dè
lo sợ mất cơ hội hội nhập hoặc << sợ Mỹ nó cười>>.
Còn hơn
thế nữa, những đứa trẻ này còn có được cung cách lễ
phép, ăn nói mực thước hơn các trẻ đồng lứa và
được ngay những phụ huynh Mỹ tán thưởng vì nêu gương tốt
cho con cái chính họ.
Chúng
có thể là nguồn hãnh diện cho cha mẹ dạy dỗ chúng, mối hãnh
diện này ngược lại cũng giúp chúng biết tự trọng, tin tưởng
nhiều hơn ở giá trị của chính mình, gia đình
và nguồn gốc của mình. Sinh hoạt văn hóa trong gia đình.
Một số nghiên cứu xã hội học gần đây cho
thấy con cái thế hệ đầu tiên của người di
dân thành công hơn những thế hệ kế tiếp. Một trong những
lý do có thể là thế hệ đầu tiên thừa hưởng
những đức tính như phấn đấu, cần cù chăm
chỉ của cha mẹ họ, những người đã trải qua bao tranh đấu,
bon chen trì chí mới đến được xứ này. Một khảo cứu y học
khác ở California cũng cho thấy con cái của những ngươi mẹ
di cư, tuy mẹ ít học so với đàn bà Mỹ bản xứ, con của họ
lúc sanh ra mạnh giỏi hơn, ít vấn đề hơn. Lý do là người
đàn bà di cư chúng ta ít có những thói xấu như uống rượu,
hút thuốc lá, ít vận động, xài drugs như một số ngươi mẹ
từng sinh trưởng và giáo dục ở Mỹ. Những điều này chứng
tỏ chúng ta cũng mang trong hành lý từ Việt nam những giá trị
tinh thần, một số tập quán đáng bảo vệ và giữ gìn cho con
cái chúng ta và luôn những thế hệ sau.
Dạy dỗ con cái bằng tiếng Việt và dạy chúng
dùng tiếng Việt nên được coi như là một trong những khía
cạnh của sinh hoạt gia đình theo truyền thống văn hóa của chúng
ta. Ðối với gia đình ở Mỹ càng ngày càng bị đe dọa tan rã
do ly dị, cha mẹ bận bịu đi
làm, mất thì giờ cho TV, sinh hoạt văn hóa trong gia đình lại
càng quan trọng hơn nữa.
Như trên
đã nói, khả năng tiếng Mỹ của phần đông chúng ta thường
giới hạn. Chúng ta thường chỉ lo học đàm thoại, tiếng Mỹ
căn bản hàng ngày như để xem TV, đọc báo.
Ða số chúng ta, cũng như đa số quần chúng Mỹ , không có thì
giờ hoặc không có ý chí để đọc những đề tài phức tạp
hơn, trừ ra bị bắt buộc như lúc phải đi học hoặc do nghề
nghiệp. Ủối với một số người, đọc sách
tiếng Việt để nhanh chóng cập nhật hóa kiến thưc văn
hóa, nhất là những đề tài về văn hóa Á châu, qua bao năm
bị cô lập hoặc kiến thứcđày đọa trong xứ
là một việc có thể làm được do số lượng sách báo Việt
ngữ, cũ được in lại hoặc mới trước tác, phổ biến càng
ngày càng nhiều ở quốc ngoại. Từ đó chúng ta có thể nâng
cao trình độ và nội dung đói thoại bằng tiếng Việt trong gia
đình, tạo một môi trường tốt đẹp cho các cháu <<gìn
vàng giữ ngọc>> văn hóa đối thoạitruyền
thống, đồng thời tích cực tham gia vào việc giáo dục các
cháu.
Hai thứ tiếng cho
hai dòng văn hóa.
Ðối với
những kẻ nửa chừng xuân như chúng ta, vừa
phải học tiếng Mỹ, vừa cải thiện trình độ văn hóa bằng
sách vở tiếng Việt, chúng ta phải đứng trước một lựa
chọn. Hoặc chúng ta giao toàn bộ sự giáo dục con cái chúng
ta cho học đường Mỹ, hoặc chúng ta cố gắng góp phần chủ
động dùng tiếng Việt để dạy dỗ chúng theo triết lý, quan
niệm sống của chúng ta và ông cha chúng ta, áp dụng vào cuộc
sống mới ở xứ này. Chắc chắn chúng ta không nên tự cao
tự đại, tự ái không đúng chỗ đề cao bất cứ cái gì
của Việt nam. Làm như thế là
tự dối lòng và đánh giá quá thấp óc phê phán và trí
thông minh của chính con cái chúng ta. Ngược lại, có lẽ đã
đến lúc chúng ta đủ sức dẹp tính tự ti quá mức và thôi
nhìn xứ sở, văn hóa chúng ta qua cái nhìn thiển cận và lỗi
thời của một số người ngoại quốc, kể cả một số học
giả không biết tiếng Việt. Những gì người ngoại quốc viết
về Việt nam cần được con cái chúng ta đọc với một thái
độ phê phán và muốn được như vậy, con cái chúng ta cần
biết đủ tiếng Việt để trực tiếp nghe hay đọc những điều
cần thiết, tận nguồn tận gốc, từ những nhân vật liên hệ
trong đó có cha mẹ chúng.
Kết luận.
Chúng ta đang ở trong một xã hội mà tiếng Mỹ
(hoặc tiếng Anh) cótrở thành ngôn ngữ
chung cho cả thế giới trên nhiều lãnh vực. Nhưng vậy không có
nghĩa là tiếng Mỹ là ngôn ngữ duy nhất, thỏa mãn mọi nhu
cầu, cho mọi người, trong mọi lãnh vực.
Thực tế
khác không thay đổi một sớm một chiều được là chúng ta
còn suy nghĩ, nói và sống với tiếng Việt. Con cái của chúng
ta cũng không thể một sớm một chiều cắt đứt mọi liên hệ
với tiếng nói, truyền thống văn tự, nếp sống của cha mẹ
chúng được. Xứ Mỹ này đã từ bỏ giấc mơ làm
<<melting pot>> pha trộn hòa lẫn mọi sắc dân với
nhau. Thực tế phải chấp nhận là một bức tranh muôn màu muôn
vẽ đua sắc với nhau (mosaic). Nếu không có văn hóa Việt, tiếng
Việt thì chúng ta là màu gì, sắc gì để có thể tự hào đóng
góp vào cái mosaic đó?
Một số
dân tộc từ Châu Phi đến rán sứcrong cùm
gông nô lệ, lịch sử, văn hóa ngàn đời bị xóa bỏ mà
nay còn ra công rán sức tìm lại cội nguồn,
viết lại những trang sử đã mất. Người Do thái làm sống
lại tiếng Hebrew qua bao ngàn năm lưu lạc nói tiếng xứ người.
Lịch sử chúng ta có ghi sẵn, văn tự chúng
ta rõ ràng, tiếng Việt lại
là ngôn ngữ Á đông duy nhất thành công trong việc dùng mẫu
tự La mã nên rất dễ truyền bá và dễ học, nếu chúng ta
đem bỏ đi chắc chắn thật uổng. Hơn nữa, chúng ta lại là những
kẻ tự do duy nhất thừa hưởng và kế tục nền văn hóa và
nguồn lịch sử đó, thì trách nhiệm chúng ta lại càng lớn
lao hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.
Ngày 11 tháng 6, năm 1999