Năm mới 2007:Một số câu chuyện y tế đầu thiên niên kỷ

Bác sĩ Hồ văn Hiền

 

 

- Y tế quản lư (managed care)

- Khủng hoảng bảo hiểm cho bác sĩ

- Dự luật bảo hiểm hành nghề

- HIPAA

- Designer ER

- Thuốc men đắt tiền và Medicare part D

- Quảng cáo thuốc trực tiếp cho người tiêu thụ và vấn đề an toàn thuốc men

- Thường trú mệt mơi, lỗi lầm y giới và thiếu hụt bác sĩ ở Mỹ trong tương lai gần

- Thi khả năng lâm sàn cho bác sĩ (clinical competency testing)

- Trường y khoa của Bắc Virginia

- Sars và khủng bố sinh học

- Bịnh cúm: khó khăn sản xuất và phân phối thuốc chích ngừa

- Cúm gà (avian flu)

- Hiện tượng toàn cầu hóa : Bịnh lao kháng nhiều thuốc và Bịnh HIV/AIDS (SIDA)

- Bịnh béo ph́, nếp sống mới  và vi trùng

- Thuốc Việt nam đem qua Mỹ và bịnh nhân Mỹ về Việtnam

- Stem cell:vấn đề đức lư và thực tế trị liệu

- Kết luận


 

Bác sĩ cũng như bịnh nhân người Việt chúng ta hiện nay sống trong một môi trường y tế hoàn toàn khác thế hệ trước do những yếu tố sau đây:

    1. Người Việt hải ngoại chúng ta thường ở những nước có nền kinh tế phát triển, mức sống cao và do đó những vấn đề y tế hàng đầu của chúng ta là những vấn đề của những xă hội giàu có, sung túc. Những bịnh về nhiễm trùng, thiếu dinh dưỡng thường không quan trọng như trước. Những bịnh, hay đúng hơn những vấn đề gây ra do nếp sống nhàn hạ, ít hoạt động thể lực , ví dụ bịnh mỡ cao trong máu, bịnh mập, bịnh tim mạch, những trở ngại trong học hành, giao tiếp, tương quan xă hội, đời sống tinh thần được y khoa chú ư nhiều hơn; ví dụ bịnh thiếu chú ư và tăng hoạt động trẻ em, bịnh tự kỷ (autism), bịnh tâm tánh (behavioral disorders), bịnh Alzheimer.

    2. Những xứ chúng ta ở có mạng lưới an toàn xă hội (social security) cao và phức tạp do đó sự mong đợi, đ̣i hỏi về mức săn sóc y tế cũng cao, dùng các dịch vụ y tế (như khám bác sĩ, dùng chuyên khoa, xét nghiệm,, thủ thuật đắt tiền..) cũng càng ngày càng nhiều do một kẻ thứ ba (bảo hiểm, medicaid) đài thọ gần như không giới hạn chi phí.

    3. Di chuyển, nhất là du lịch giữa Việt nam, một nước nhiệt đới c̣n chậm phát triển và những xứ ôn đới phát triển sẽ đem đến cộng đồng hải ngoại những bịnh mà y giới Mỹ, Canada, Pháp đôi khi không nghĩ tới hoặc ít khi gặp ở nhóm bịnh nhân ḿnh quen thuôc (thường là bịnh nhân trung lưu các suburbs khá sung túc (như những bịnh lao, HIV/AIDS, bịnh sốt rét, bịnh SARS, cúm gà..).

    4. Do các truyền thông như internet, điện thoại, truyền h́nh và phát thanh bằng satellite, lần lần sự khác biệt về kiến thức y khoa, về các thái độ bịnh nhân về các hoàn cảnh y tế, y khoa của người trong nước và người hải ngoại dần dần sẽ không c̣n khác nhau lắm. Ví dụ, bịnh nhân trong nước nay cũng dùng internet khá nhiều để t́m hiểu về những phương tiện thí nghiệm chữa trị các bịnh phức tạp và khó; những câu hỏi bịnh nhân điện vào mục thắc mắc y học đài VOA lắm khi được trang bị với những kết quả thử nghiệm phức tạp như siêu âm, CT, MRi vv..; khá đông bịnh nhân hỏi về khả năng đem thân nhân qua Mỹ chữa bịnh.

    5. Ngược lại, do chiều hướng thị trường ở Việt nam thay đổi, càng ngày càng có nhiều người Việt ở Mỹ về VN chữa bịnh (chữa răng, cắt thịt dư, mổ mắt Lasik chữa cận thị). H́nh như chính quyền VN cũng đang nghiên cứu phát triển mặt này (du lich chữa bịnh) theo gương Thái lan và Ấn độ, để kiếm ngoại tệ. mới đây một bịnh viện giải phẩu thẩm mỹ ở Sài g̣n có đăng quảng cáo dài trên dĩa nhạc  Paris by Night dành cho khán giả hải ngoại.

 

Y tế quản lư (managed care):

Cũng gần đây thôi, vào khoảng đầu thập niên 1990, Bà Clinton định làm một cú đảo chính y tế, với mộng cải tổ nền y tế Hoa kỳ bắt đầu bằng những buổi họp kín của các chuyên viên kinh tế thân cận cặp vợ chồng luật sư "baby boomers" này , mà không cần tham khảo đến hai nhóm "lobby" thứ mạnh nhất của nước Mỹ là Hội Y khoa Mỹ (AMA) và Hội các Bịnh viện Mỹ (AHA). Mặc dù cố gắng cải tổ từ chính quyền trung ương thất bại, nền y tế Hoa kỳ cũng bắt buộc biến đổi theo các áp lực thị trường, động cơ chính do các công ty Mỹ không c̣n chịu nổi sự tăng giá càng ngày càng nhiều của chi phí bảo hiểm về y tế cho nhân viên và công nhân của họ. Những công ty bảo hiểm y tế quản lư (managed care) sau đó dần dần mọc ra như nấm, các bác sĩ cũng như bịnh viện càng ngày càng thấy quyền kiểm soát nền kinh tế của ngành y tế (health economics) càng ngày càng tuột khỏi tầm tay của ḿnh. Họ có cảm tưởng như ngành y tế đang được "MacDonald" hóa, trở thành một dịch vụ hoạt động theo lối franchise , giây chuyền , không c̣n sự liên hệ trực tiếp giữa con người và con người như trước. Thử nghiệm phức tạp (như chụp CT, chụp cọng hưởng từ trường (MRI) , nằm nhà thương, vào pḥng cấp cứu, xài thuốc đắt tiền , áp dụng các chữa trị c̣n trong ṿng thí nghiệm, đều phải xin phép trước. Người cho phép không phải là bác sĩ mà là một y tá hoặc là một nhân viên hành chánh được hướng dẫn theo dơi những guidelines của công ty bảo hiễm. Tuy nhiên, đối với bác sĩ , lo sợ trở thành "Doc-in-a-Box" , một thợ chữa bịnh, vừa chữa bịnh vừa lo bảo vệ túi tiền của chủ nhân (các HMO) không trở thành sự thật. Thật ra, bịnh nhân đa số vẫn c̣n tin cậy bác sĩ riêng của ḿnh và dần dần chống đối các giới hạn lựa chọn của các HMO; những scandal liên quan đến các tai nạn trị liệu gây ra do giới hạn không cho bịnh nhân gặp bác sĩ dễ dàng (access of care ) làm cho các HMO càng ngày càng phải nới rộng sự quản lư khắc khe của ḿnh, lắm khi bị thách thức trong những vụ thưa kiện giữa bịnh nhân và công ty bảo hiểm cũng như giữa tập thể bác sĩ và công ty bảo hiểm.

Các diễn biến này đưa đến một nền y tế dù vẫn c̣n quản lư, nay đă được "đổi mới", dễ thở hơn đối với các bác sĩ cũng như thoải mái hơn đối với bịnh nhân. Tuy nhiên, mặc dù ngân khoản dành cho y tế càng ngày càng chiếm một phần lớn hơn của tổng sản lượng quốc gia, vấn đề nan giải nhất của y tế Mỹ là khoảng 40 triệu người Mỹ vẫn không được bảo hiểm sức khỏe và một số đáng kể trong nhóm này là những trẻ em nghèo khó. Cho nên, ở Mỹ vẫn luôn luôn c̣n một trường phái cỗ vơ chủ trương một cơ quan tự như Medicare, đứng ra bảo hiểm y tế cho toàn nước Mỹ (single payer system). Giải pháp này tương tự như chế độ y tế xă hội của Canada, do chính phủ đứng ra quản lư toàn bộ ngành y tế. Tuy nhiên AMA chống đối chủ trương này, v́ như nhiều người đă từng nghe đến những chậm trể , giới hạn diều trị và những nổi khổ khác của bác sĩ cũng như bịnh nhân trong hệ thống y tế kiểu Canada; cụ thể nhất là số bác sĩ Canada càng ngày càng đông t́m các qua Mỹ hành nghề cũng như những bịnh nhân Canada, đợi chờ quá lâu, phải qua biên giới chữa bịnh cho nó lẹ.

Khủng hoảng bảo hiểm cho bác sĩ:

Vừa được thở phào thoát bớt nanh vuốt của y tế quản lư, chúng ta lại gặp phải một cơn sốt khác. Sau một thời gian phát triển kinh tế không ngừng trong mười hai năm liên tiếp, nhất là dưới thời Clinton, nền kinh tế bắt đầu suy thoái, cọng thêm biến cố 11 tháng 9, cái bong bóng kinh tế bị vỡ. Các công ty bảo hiểm lỗ lă nặng trong các đầu tư lớn của ḿnh cũng như bị mất tiền trong các bảo hiểm thiên tai bèn quay qua làm khó dễ , bắt nạt các bác sĩ bị yếu thế trong vấn đề bảo hiểm hành nghề. Thật ra, bảo hiễm hành nghề cho y giới chỉ là một phần nhỏ của doanh thương bảo hiễm ,cho nên các hăng bảo hiễm cũng không tha thiết ǵ nhiều đến khu vực này. Một số hăng như Saint Paul c̣n rút ra khỏi thị trường này làm một số bác sĩ chạy đôn chạy đáo t́m mua bảo hiễm nơi khác, v́ như mọi người đều biết, không mấy ai dám liều lĩnh hành nghề không bảo hiểm nghề nghiệp, không khác này làm xiếc không dây. Một số hăng bảo hiểm khác lại bị khánh tận, như Doctors Insurance Reciprocal (DIR), bản doanh tại tiểu bang Tennessee nhưng lại khách nhiều nhất ở Virginia, làm một số đông bác sĩ trong vùng này bị hơng cẵng, lại phải đi nhiều nơi năn nỉ mua bảo hiểm khác. Nếu bác sĩ có lư lịch tốt, chưa từng bị kiện tụng,th́ không khó khăn lắm, chỉ phải trả tiền hai lần thôi, cao giá ơn nhiều ít. Nếu là người hành nghề có "tiền án" th́ khó khăn hơn. Một số bác sĩ phải bỏ bớt những hoạt động "risky" như khám bịnh nhân ở nhà già (nursing home) mới mua bảo hiểm được. Tội nghiệp một số bác sĩ già về hưu rồi, tưởng an toàn với cái "tail" của DIR, th́ nay phải bỏ tiền hàng ngàn đô đi mua cái "đuôi" khác, tức là cái "tail" để bảo hiễm cho những kiện tụng có thể xảy ra sau này liên hệ đến thời gian hành nghề trong quá khứ..

Một số ngành chuyên môn như sản khoa, chỉnh trực (orthopedics), neurosurgey, bị ảnh hưởng nặng, giá bảo hiểm lên đến hàng trăm ngàn đồng một năm. , nhất là ở một số tiểu bang mà tiền bồi thường cho bịnh nhân có thể được các jury thiếu tinh thần trách nhiệm xă hội "tặng" cho nguyên đơn (plaintiff) vượt quá xa sự đền bù thiệt hại một cách hợp lư. Một số khá đông bác sĩ sản phụ khoa (obstetrician-gynecologist) không c̣n muốn hành nghề đỡ đẻ nữa v́ tiền bảo hiểm quá cao. Năm qua trong số những bác sĩ mới ra trường tiểu bang Maryland, không người nào muốn đi thực tập nội trú về sản khoa v́ sợ bảo hiểm nghề nghiệp cho ngành này quá đắt tiền. Một số khá đông bác sĩ sản khoa chuyển qua ngành y khoa thẩm mỹ (cosmetic medicine) tương đối dễ thở hơn.

Những nơi như West Virginia và Pennsylvania, các bác sĩ giải phẩu đă phải làm reo ngưng làm việc mới gây nổi tiếng vang ép buộc chính phủ tiểu bang can thiệp để tránh t́nh trạng dân chúng thiếu bác sĩ. Tiểu bang Virginia, tuy không trầm trọng v́ mức bồi thường cho bịnh nhân được giới hạn ở mức chừng một triệu mấy đô la, chính quyền cũng đang điều tra xem có thật sự khủng hoảng trong vấn đề bảo hiểm chuyên môn cho bác sĩ hay không. Hiện nay, đến 19 tiểu bang đang bị khủng hoảng về bảo hiểm hành nghề sơ sót và 25 tiểu bang khác cũng đang bị đe dọa.

Dự luật bảo hiểm hành nghề

Ở mức liên bang, chính quyền Bush cũng đang cố gắng cải thiện vấn đề này nhưng chưa có kết quả. Chủ tịch đa số Thượng viện (Majority Leader) Bill Frist, nguyên là một bác sĩ giải phẩu tim, ủng hộ Medical Malpractice Bill của đảng Cọng Ḥa , đứng về phía các bác sĩ, các bịnh viện và các công ty bảo hiễm. Bill này t́m cách giới hạn bồi thường đau đớn và đau khổ (damages for pain and suffering in malpractice cases) cũng như bồi thường trừng phạt tổn hại (punitive damages) ở mức 250,000 độ la. Tiền thu lao trả luật sư theo tỷ lệ (contingency basis) cũng sẽ bị giới hạn. Tuy nhiên do sự chống đối của những nhóm luật sư và nhóm cổ vơ quyền lợi của bịnh nhân, được đảng Dân Chủ ủng hộ,dự luật này bị giết chết ngay tại thượng viện hồi đầu tháng 7 năm 2003, đến năm 2004 vẫn chưa được giải quyết.

HIPAA

Lo về bảo hiểm chưa xong, th́ y giới c̣n phải điên đầu về luật mới, Health Insurance Portability and Accountability Act viết tắt là HIPAA. Luật này được thành h́nh từ 1996 dưới trào Clinton (dân chủ) để bảo vệ quyèn riêng tư ( privacy rights) người bịnh , cũng như để thống nhất hóa và giản dị hóa một số làm việc về thông tin, trao đổi dữ kiện trong ngành y tế( giữa bác sĩ, bịnh viện, cơ quan bảo hiểm , các cơ quan y tế công cọng ,..các dữ kiện như định bịnh ǵ, chữa trị thế nào, ngày sinh số an sinh xă hội, của bịnh nhân.. ). Nói chung là với luật mới, những dữ kiện về người bịnh (protected health information, PHI) chỉ được phổ biến ra ngoài nếu được người bịnh cho phép, và người cung cấp dịch vụ y tế phải bằng mọi biện pháp không cho người không liên hệ "truy cập"(access) các dữ kiện này. Ví dụ , không được ghi chứng bịnh của bịnh nhân ngoài b́a hồ sơ mà ai cũng thấy, hoặc bạn ḿnh nằm nhà thương ḿnh điện vào bịnh viện hỏi thăm th́ bịnh viện không có quyền trả lời. Tuy nhiên, v́ luật mới áp dụng từ năm nay, ai cũng sợ phạm luật mà lại chưa hiểu rơ áp dụng đúng mức như thế nào nên dễ đi quá lố. Cho nên, lắm trường hợp gây trở ngại trong việc thông tin cần thiết để điều trị kịp thời, và mặt khác các bác sĩ phải học tập rất nhức đầu và lắm khi chi tiêu tốn kém để sữa đổi lề lối làm việc cũng như thành lập rất nhiều thủ tục rườm rà cho đúng luật.

Designer ER

Tuy giới y tế có rất nhiều chuyện phải lo như trên, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy nền kỹ nghệ "y tế lại càng lúc càng đổ tiền vào các chi phí mới do bịnh nhân đ̣i hỏi những tiêu chuẩn cao hơn và những nhóm cỗ cơ quyền lợi bịnh nhân đ̣i hỏi những biện pháp chữa trị an toàn hơn. Ví dụ, pḥng cấp cứu các bịnh viện càng ngày càng chuyên môn hóa. Như pḥng cấp cứu các bịnh viện nay có những phân khoa chuyên cho nhi đồng và những bác sĩ board certified về pediatric emergency medicine. Những trường hợp nhiễm trùng nặng trẻ em c̣n có những nhóm chuyên môn chữa cấp cứu cho những em bị nhiễm trùng gây kích xúc (septic shock), nhóm chuyên môn cho những trường hợp bạo hành t́nh dục (sexual abuse) . Các trẻ em ở Virginia hiện nay đều được thử thính giác để truy tầm bịnh điếc lúc mới sanh, có khi phải thử đi thử lại nhiều lần. Do đó bịnh viện được trang bị thêm cho hàng ngàn thử nghiệm này, và do đó chi phí cũng tăng thêm.

Tuy nhiên , lắm khoảng phí tổn xem có vẻ như không phải là tất yếu. Trong vùng Hoa Thịnh Đốn này, bịnh viện Arlington Hospital mà rất đông chúng ta đă thân thuộc qua nhiều năm nay, sau khi bán cho chain nhà thương Columbia để trở thành for-profit, nay đă trở thành non-profit như cũ, với một tên mới cho oai hơn, Virginia Hospital Center, với chương tŕnh xây dựng pḥng ốc cơ sở mới vừa được hoàn tất lên tới 150 triệu đôn và quảng cáo ầm ỉ trên các hệ thống truyền thông. Trong biện viện vừa mới khai trương này, lobby được trang trí như một khách sạn năm sao, các bịnh nhân được đón tiếp bởi một concierge hầu cho từng người cho đến khi được đưa vào pḥng riêng…Tổ hợp bịnh viện Inova, mặc dầu sau khi tính sổ lại, th́ thấy lợi tức của ḿnh thấp hôn cả 30 triệu đô so với báo cáo trước đây, nay bắt đầu thắt lưng buộc bụng và cho sa thăi hơn trăm nhân viên. Tuy nhiên Inova Fairfax Hospital vẫn xúc tiến xây những cơ sở vĩ đại như Heart Center và Emergency Room, và nhà thương Inova Mount Vernon tuy chẳng hư hao ǵ, người ta cũng dự trù dời đi chỗ khác bỏ hàng trăm triệu đô xây cái khác mới và đẹp hơn. Ở thành phố Richmond nhỏ hơn, thủ phủ của bang Virginia, đại học VCU cũng có chương tŕnh xây dựng toàn bộ mới các trường y khoa và bịnh viện cho sinh viên thực tập (teaching hospital) chi phí hang trăm triệu đồng.

Cũng giống như chiều hướng khắp nước Mỹ hiện nay. Nghĩa là ai cũng than lổ lă, nhưng ai cũng phải chi tiền đôi khi hoang phí để lấy tiếng, để thu hút bịnh nhân có tiền, để không thua kém với đối thủ cạnh tranh với ḿnh. Những khu sản khoa nay không c̣n là "xưỡng đẻ" tầm thường đầy máy móc và buồn tẻ nữa mà được trang bị bằng những sàn gỗ bóng loáng, những màng cửa đắt tiền và những giường ngủ không kém hoặc có thể hơn giường của ḿnh ngủ ỏ nhà.

Ở New York, các bà bầu Medicaid c̣n được cung cấp điện thoại cầm tay miễn phí xài thả giàn. Ngay tại pḥng cấp cứu, theo báo The Wall Street Journal, các bịnh viện bây giờ cũng phải xài bàn ghế loại "designer"cho bịnh nhân dùng, mặc dù bịnh nhân pḥng cấp cứu thường không phải là bịnh nhân lợi tức cao, sang trọng. Tuy nhiên, v́ đây là một chiến thuật kinh tế, các ban giám đốc nhà thương nh́n xa hơn.

Dù sao th́ đa số khách đến pḥng cấp cứu cũng có bảo hiểm hoặc có tiền trả. Nếu trong lúc người ta nguy khốn cần tới ḿnh th́ nếu được đối xử niềm nỡ, long trọng , sau này lúc cần tới bịnh viện để chữa cho bản thân hoặc cho người thân (gia đ́nh nào mà chẳng có lúc đau bụng, đau túi mật, đau tim, sinh con đẻ cái .. ) về sau này người ta sẽ nhớ đến cái ấn tượng đầu tiên về biện viện lúc ngồi chờ đợi trên cái ghế bành sang trọng của pḥng cấp cứu, được mời ly cà phê do concierge đem đến mời uống. Cho nên giới y tế chúng ta , dù có nhức đầu với bao nhiêu điều lệ mới hàng ngày do các hăng bảo hiễm hoặc do các cơ quan nhà nước đặt ra, vào nhà thương chúng ta vẫn được hưởng những tiện nghi mà trước đây chúng ta không bao giờ tưởng tương nổi. Đối với người bịnh h́nh ảnh của nhà thương càng ngày càng gần với h́nh ảnh một khách sạn hạng sang (và c̣n có thể sang thêm nữa nếu chúng ta chịu chi thêm tiền) răm rắp tuân theo mọi sở thích của bịnh nhân, từ pḥng riêng biệt trang bị như một suite sang trọng, cho đến thức ăn theo khẩu vị sắc tộc (ethnic food) của ḿnh. Đúng là có tiền mua tiên cũng được.  

 

Thuốc men đắt tiền và Medicare part D.

Đă nói tiền th́ phải nói đến thuốc men càng ngày càng tăng giá. Những thuốc tốt và ít phản ứng phụ mà chúng ta hiện nay coi như là không thể không có được v́ đă quen xài như Claritin , Allegra, Nasonex, Zantac, Pepcid, Prilosec, Lipitor, Elidel.. chỉ mới xuất hiện có mấy năm gần đây và rất rất đắt tiền . Nhiều khi, tiền trả cho bác sĩ ra công khám và định bịnh, cho toa và theo dơi bịnh chỉ bằng một phần nhỏ của tiền đi mua một ống thuốc. Các hảng bảo hiểm cố gắng giảm thiểu vấn đề này bằng cách làm áp lực đổi tư thế thuốc mua có toa (prescription drug) thành thuốc mua tự do như trong trường hợp Claritin để họ không c̣n trách nhiệm trả tiền những thuốc rất thịnh hành này nữa. Vụ thuốc Claritin kéo theo những thuốc khác như Allegra, Zyrtec, Patanol.. làm những thuốc này cũng bị môt số hăng bảo hiểm từ chối không đài thọ nữa. Đối với bịnh nhân nhi khoa chẳng hạn, trừ trường hợp thuốc trụ sinh, hầu hết các bịnh thông thường như dị ứng da, ho, sổ mũi, nóng, ngứa, dị ứng mũi , dị ứng mắt , thiếu máu do thiếu chất sắt đều có thể chữa bằng những thuốc bán over the counter không cần toa bác sĩ, mà cũng không được bảo hiểm đài thọ. Trong lúc đó th́ các hăng thuốc càng ngày càng trở nên hung hăn trên mặt trận quảng cáo (tiếp thị) trực tiếp đến bịnh nhân qua các phương tiện truyền thông.

Cũng v́ thuốc bên Mỹ đắt như vậy mà một số người Mỹ cũng như một số tiểu bang Mỹ t́m mua thguốc từ Canada hoặc những xứ khác (như Mexico) rẻ hơn nhiều, đặt ra vấn đề kiểm soát chất lượng đối với FDA và cũng đi ngược lại các luật lệ thuốc men của Mỹ. Tháng bảy năm 2003 , cả Hạ viện và Thượng Viện đều thông qua các dự luật trả tiền thuốc cho bịnh nhân già Medicare, lên đến 400 tỷ đô la trong 10 năm tới. Tháng 12 năm 2003 Tổng thống Bush kư thành luật cải tổ medicare (Medicare Prescription Drug, Modernization and Improvement Act/ MMA). Tuy nhiên, trừ trường hợp có Medicaid (cho người nghèo) kèm theo Medicare, người già phải mua phần D này của Medicare và cũng phải trả deductible và copayment  khá nhiều và chính phủ chỉ sẽ bỏ ra chừng 40% giá thuốc mà thôi. Các hăng thuốc th́ mừng v́ thuốc sẽ được tiêu thụ nhanh hơn, nhiều hơn, nhưng ngược lại, chính phủ trả tiền thuốc th́ chính phủ sẽ thương lượng trả giá gắt gao với các nhà sản xuất thuốc, sẽ kiểm soát giá cả thuốc nhiều hơn trước.

Quảng cáo thuốc trực tiếp cho người tiêu thụ và vấn đề an toàn thuốc men

Trong quá khứ, hầu hết các quảng cáo là chỉ để nhắc nhở trực tiếp bác sĩ về sự hiện diện của môn thuốc của ḿnh và những thuận tiện nếu bịnh nhân xài thuốc này. Hiên nay một hăng thuốc bỏ ra hàng trăm triệu đô la để t́m ra một thuốc ăn khách đem lợi nhuận ào ạt vào cho người đầu tư. Ví dụ như thuốc Prilosec (omeprazole) chữa bịnh axit cao trong bao tử bằng cách ức chế cái bơm proton trong tế bào bao tử (proton pump inhibitor, PPI). Thuốc thành công quá mức tưởng tượng, đem về trên 4 tỹ đô la một năm. Xă hội càng an nhàn, con người càng mập không những ở Mỹ mà khắp thế giới Âu Á, ăn uống càng nhiều, không điều độ, bao tử càng khó chịu, thức ăn nuốt vào như muốn trào ngược lên họng, xót ruột, ợ chua, gọi là gastroesophageal reflux disease (GERD, bịnh trào ngược thực quản) nên các thuốc trong loại này bán trên 10 tỹ đô la một năm.. Năm nay, 2003, bản quyền thuốc Prilosec bị chấm dứt và những thuốc generic ra đời mùa thu năm nay kéo giá tiền thuốc từ 4 dollars c̣n chừng 50 cents, giảm xuống 90%. Hăng thuốc bèn dùng chiến thuật tung ra thị trường một thuốc khác tương tự (Nexium) và quăng cáo ào ạt để bác sĩ và người tiêu thụ chuyển qua thuốc mới bán cao giá hơn.

Một chiến thuật khác là nhắm vào những vùng tranh tối tranh sáng (gray area) trong sự định nghĩa của một căn bịnh, và do đó mở rộng chỉ định, nghĩa là lănh vực áp dụng (indication) của một thuốc sẳn có. Như lúc nào th́ bịnh nhân bị trầm uất (depression), lúc nào th́ bịnh nhân người lớn có thể được định bịnh thiếu chú ư (Adult Attention Deficit Disorder, ADDH), bịnh trào dịch thực quản (Gastroesophageal Reflux Disease, GERD), bịnh mỡ máu quá cao (hyperlipidemia), quá thấp, thiếu chiều cao (để có thể dùng hormon tăng trưởng /growth hormone rất đắt tiền). Chiến thuật của các nhà sản xuất thuốc là làm sao định bịnh các trạng huống cần chữa trị càng ngày càng nới rộng ra, bác sĩ càng xài thuốc nhiều và bịnh nhân càng đ̣i hỏi bác sĩ kê toa (do đó hăng bảo hiểm phải trả tiền) những thuốc mới hơn và đắt tiền hơn.

Ví dụ, tháng 7 năm 2003, Cơ Quan Quản Trị Dược Phẩm Li ên Bang (FDA) chấp nhận dùng hormon tăng trưởng (growth hormone) trong những trường hợp trẻ thiếu thước tấc (short stature) tuy chúng không bị thiếu growth hormone.Thuốc này tốn kém chừng ba chục ngàn đô la một năm, trong nhiều năm, chỉ để tăng bề cao chừng một hai inches mà thôi ở một trẻ hoàn toàn b́nh thường. Đối với người lớn cũng như thiếu niên, thuốc hạ mỡ trong máu như Lipitor càng ngày càng được dùng để hạ mức cholesterol ở những bịnh nhân đang có mức thấp hơn trước đây nhiều.

Tuy nhiên, năm 2004 cũng là lúc những chiến thuật "aggressive" của các nhà thuốc bắt đầu khựng lại.Một số thuốc bán rất chạy, rất được bịnh nhân ưa chuộng , đem nguồn lợi lớn cho hăng bào chế đột nhiên bị rút khỏi thị trường v́ những phản ứng phụ (side effects) không lường trước. Thuốc Vioxx giảm đau nhức cho người bị thấp khớp, và ít làm khó chịu bao tử, rất đắt tiền, được trên một triệu người ở Mỹ dùng, đem lại cho nhà sản xuất trên 5 tỷ đô la một năm, đă bị hăng Merk t́nh nguyện thu hồi v́ thuốc làm gia tăng nguy cơ bịnh tim mạch (đau tim, tai biến mạch máu năo, heart attacks and strokes) nếu dùng lâu dài. Giá trị trên thị trường chứng khoáng của hảng Merck bi thiệt hại nặng v́ vụ này. Nay đến phiên thuốc đau nhức khác cùng loại (Cox2 inhibitor), Celebrex cũng bị nghi gây ra những vấn đề tim mạch tương tự. Tháng 12 năm 2004, thuốc giảm đau thườn g dùng trên thị trường tự do không cần toa (Naprosyn, Aleve) cũng bị vấn đề tương tự. Trong những ngày tới, sẽ có áp lực để tăng vai tṛ kiểm soát của FDA làm co FDA hữu hiệu hơn trong vài tṛ bảo vệ sức khỏe người tiêu thụ và giới hạn bớt những quảng cáo của nhà thuốc nhắm trực tiếp người tiêu dùng (thay v́ giới hạn quảng cáo vào giới bác sĩ).

Thường trú mệt mơi, lỗi lầm y giới và thiếu hụt bác sĩ ở Mỹ trong tương lai gần.

Nói về chuyện nhà thương và hành nghề sơ sót (malpractice), tưởng cũng nên nhắc lại một báo cáo gần đây của Viện Y khoa Hoa kỳ ước lượng có chừng 100,000 (một trăm ngàn) người bị thiệt mạng v́ sơ sót của y giới (medical mistakes) trong các nhà thương Mỹ. Con số này làm cho chính chúng ta cũng phải giật ḿnh và suy gẫm. Không biết ở các xứ khác thiếu phương tiện hơn, tinh thần phục vụ thấp hơn v́ cuộc sống người làm việc trong ngành ít được ưu đăi hơn, các lỗi lầm y khoa sẽ phổ biến tới mức nào.

Liên hệ tới chuyện này là năm nay, bắt đầu áp dụng khắp Hoa kỳ những luật mới giới hạn giờ làm việc và giờ gác trực của các nội trú và thường trú tại các chương tŕnh huấn luyện. Ư thức về t́nh trạng khai thác quá lố sức lao động rẻ (cheap labor) của các bác sĩ thực tập khởi phát từ New York. Đó là trường hợp một cô gái con một luật sư bị uống thuốc quá liều, nhâp viện ở một nhà thương New York, dưới tay của một bác sĩ thường trú đang quá mệt mơi v́ thiếu ngủ và không được bác sĩ thực thụ (attending physician) giám sát chặt chẻ. Phong tráo đ̣i quyền nghỉ ngơi và lập nghiệp đoàn theo luât lao động của các resident thực tâp là một chiều hướng mới trong ngành giáo dục y khoa. Ngược lạI, người ta tiên đóan trong những năm tới nước Mỹ sẽ thiếu rất nhiều bác sĩ.  Tỷ lệ thế hệ baby boomers của Mỹ đang đến tuổi về hưu, tỷ lệ người lớn tuổi càng ngày càng đông, và những người này lắm khi sẽ đ̣i hỏi rất nhiều dịch vụ săn sóc y tế ở mức độ cao trong những năm sắp tới v́ họ thuộc nhóm người thành công về tiền bạc trong những thập kỷ vừa qua. Giới bác sĩ lớn tuổi cũng sẽ về hưu ào ạt, lớp bác sĩ  trẻ tuổi vừa ít lại vừa không chịu làm việc theo kiểu “workaholic” bất kể ngày đêm như đàn anh của họ từng làm, hai yếu tố này lại càng làm cho xứ này thiếu hụt trầm trọng bác sĩ trong tương lai gần. Do đó hiện nay Mỹ đang có những cố gắng khuyến dụ các bác sĩ đào tạo tại ngoại quốc vào Mỹ để huấn luyện them và hành nghề tại Mỹ.

 

Thi khả năng lâm sàn cho bác sĩ (clinical competency testing)

Các bác sĩ trẻ tranh đău cho quyền lao động của ḿnh th́ ngược lại quần chúng càng ngày lại càng chuẩn hoá các bác sĩ mới ra trường cũng như đang hành nghề. Y khoa Mỹ càng ngày càng có tính cách máy móc và kỹ thuật hơn là một nghệ thuật săn sóc và trị bịnh giữa con người bác sĩ và con người bịnh. Một bài báo gần đây của một resident Mỹ trong báo Washington Post nói lên nỗi ḷng của người bác sĩ trẻ hiện nay mà cũng là nổi lo của một số bịnh nhân cũng như nhà giáo dục y khoa. Ví dụ, chụp Xquang phổi có vẻ lẹ hơn và khách quan hơn là nghe bằng ống nghe để chẩn đoán, đó là chưa nói đến CT scan, MRi , EKG đo tim, Holter monitoring.. để theo dơi t́nh trạng tim.. Cho nên, đối với người bác sĩ trẻ, cách làm việc ở nhà thương giống một pḥng thí nghiệm hơn là một pḥng chẩn bịnh. Người bịnh bằng xương bằng thịt được giản dị hóa thành tổng số những dữ kiện t́m thấy trong computer dưối tên và số hồ sơ của người đó. Quan hệ giữa bác sĩ và bịnh nhân có thể gần như không có và nghệ thuật làm người lương y "healer" sẽ mất dần dần.

Bắt đầu từ năm 2005, các bác sĩ bên Mỹ sẽ phải thi một kỳ thi lâm sàn (nghĩa là bên cạnh người bịnh bằng xương bằng thịt tuy là do người đóng vai bịnh giả) để xem bác sĩ có nói rơ dủ cho bịnh nhân hiểu hay không (nghĩa là nếu là người ngoại quốc có nói tiếng Mỹ "nghe được" hay không), có biết dùng ngũ quan (sờ, nghe, gỏ, nắn, nh́n, ngưĩ..) để thu góp những dấu hiệu trên người bịnh vân vân. Kỳ thi này tốn kém chừng cả ngàn đô la, chỉ có ở vài thành phố lớn ở Hoa kỳ và lại thêm một mối lo cho các bác sĩ trẻ.

Trường y khoa của Bắc Virginia

Về một phá triển mới trong giáo dục y khoa liên hệ tới địa phương chúng ta là khuynh hướng các trường y khoa thiết lập những campus vệ tinh để đa dạng hóa kinh nghiệm học hỏi của các sinh viên y khoa cũng như đáp ứng nhu cầu y tế của những đîa phương đang phát triển mạnh về dân sốvà về sức mạnh kinh tế. Nói một cách khác, bịnh nhân tiền bạc ở đâuth́ đến trường đại học cũng theo đến đó. Tại Virginia, noi gương môt số trường y khoa ở Texas và Nevada, trường Y khoa Medical College of Virginia (MCV) của Đại học VCU (Virginia Commonwealth University), Richmond, sẽ thiết lập một campus thứ nh́ tại Inova Fairfax Hospital và dạy toàn thời gian cho sinh viên năm thứ ba và thứ tư y khoa tại đây. VCU Medical School Inova Fairfax Campus  bắt đầu hoạt động từ năm 2005 và sắp tới một chi nhánh của trường Dược cũng được thiết lập tại BV Fairfax. Như vây là lần đầu tiên vùng bắc Virginia sẽ có trường y khoa riêng của ḿnh và hy vọng cung cấp cho vùng những bác sĩ gốc gác ở đây, được hưởng tiền học phí tiểu bang và hy vọng ở lại Virginia hành nghề cho đîa phương ḿnh. Thiết tưởng, đây cũng là một tin mừng cho giới sinh viên Việt nam, học tại chỗ, gần nhà đỡ tốn kém hơn nhiều.

Sars và khủng bố sinh học

Nói về địa phương Washington Metropolitan Area chung quanh thủ đô chúng ta, v́ "gần mặt trờI" nên hơn ai hết chúng ta lại càng chịu ảnh hưởng của những biến cố chính trị và đặc biệt là những đe dọa về chiến tranh sinh học. sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, vùng chúng ta được cảnh giác liên miên về những đe dọa sinh học có thể hoặc đă xảy ra. Bịnh than (anthrax) , b́nh thường chỉ là một đe dọa cho thú vật hoặc những người nuôi thú vật, trở thành một đe dọa cho những dân đô thị tại vùng này v́ vi trùng bịnh than được quân khủng bố gởi trong những bao thơ bề ngoài có vẻ vô hại. Nhiều người bịnh, nhất là những người làm việc cho bưu điện vùng Washington, trong số vài người tử vong có một phụ nữ Việt nam tại New York. Với thời gian, sau khi đem đến không biết bao nhiêu tiền lời cho những nhà thuốc sản xuất thuốc trụ sinh đắt tiền Cipro v́ ai cũng muốn tích trữ thuốc này mặc dù bịnh than có thể chữa bằng thuốc tetracycline rẽ tiền hơn, bịnh này dần dần đi vào quên lăng.

Bịnh đậu mùa (small pox) , cũng được nhắc tới nhiều trong thời gian qua. Bịnh này cần phân biệt với chickenpox , hoặc varicella, tiếng Việt là trái rạ, hoặc thủy đậu. Chicken pox nhẹ hơn nhiều, trước đây trẻ con bị nổi mụt nước chừng vài hôm, bị sốt và ngứa , không uống thuốc cũng khỏi, chỉ bị thẹo nhẹ và ít. Trường hợp hiếm chicken pox mới gây biến chứng nặng như sưng phổi (pneumonia), sưng óc (encephalitis). Gần đây một số tiểu ban c̣n xuất hiện bịnh monkeypox, tạm dịch là đậu khỉ, tên monkey pox và vết mụn nước ngoài da cũng dễ gây lầm lẫn với hai bịnh trên. Tuy nhiên bịnh này nhẹ hơn smallpox, do một số chuột đồng nuôi làm pet truyền sang người và chỉ xảy ra lẻ tẻ vài trường hợp.

Hiện nay, do luật đa số tiểu bang, các em đều đă được chích ngừa bịnh trái rạ (thủy đău, chickenpox). Trái lại, bịnh đău mùa nguy hiểm hơn nhiều và mấy chục năm trước tất cả mọi người đều được chủng ngừa đău mùa, cho đến lúc bịnh đău mùa được Cơ quan Y tế Quốc tế (WHO) tuyên bố là đă tiệt gốc (eradicated) trên ṭan thế giới năm 1980 . Cái thẹo lớn mà ai cũng mang trên vai hay đùi là do chủng ngừa đău mùa. Sau đó, chỉ c̣n hai pḥng thí nghiệm trên thế giới, một ở bên Mỹ, một ở Nga (Russia) c̣n giữ những mẫu sống của con virus smallpox. Một số virus bịnh này có thể đă lọt vào tay những kẻ có tham vọng gây chiến tranh bằng vơ khí vi trùng. Do đó, đầu năm nay, chính phủ Mỹ định phát động một phong trào chủng ngừa đău mùa cho nhữngngười ở tuyến đầu mặt trận chiến tranh vi trùng ( như bác sĩ , y tá cấp cứu, nhân viên y tế, quân đội, ..) nhưng một số bịnh viện cũng như cá nhân c̣n ngần ngại v́ các biến chứng có thể xảy ra, nhất là ở những người có hệ thống miễn dịch bị yếu kém (immunocompromised).

Đầu năm nay, 2003, lại xuất hiện bịnh mới là SARS, viết tắc chữ Severe Acute Respiratory Distress Syndrome, dịch là Hội Chứng Suy Hô Hấp Cấp Tính Nặng. Bịnh này phát xuất từ miền nam Trung Quốc, do một virus tên corona virus , có lẽ từ con chồn hương (civet), truyền qua những người đầu bếp làm thịt chồn, qua các bác sĩ, nhân viên y tế . Một ông bác sĩ người Tàu đem bịnh này qua Hồng Kông, lây qua cho nhiều người ở chung một từng lầu khách sạn. Những người này đem bịnh phân phối đi khăp nơi: Việtnam, Canada, Đài loan , Singapore và luôn tới Mỹ, tuy ở Mỹ không ai bị chết. Sau khi làm tê liệt nền kinh tế Đông N am Á cũng như Trung Quốc, thiệt hại chừng 50 tỷ đô la, bịnh này tự nhiên biến mất vào mùa hè, không biết bao giờ xuất hiện lại. Việt nam được khen là nước đầu tiên khắc phục được bịnh SARS, có lẽ một phần do hiện diện các chuyên gia y tế quốc tế ở Hà nội và Sài g̣n, một phần có lẽ hệ thống điều ḥa không khí tái lưu thông mầm bịnh trong bầu khí các bịnh viện ít xăy ra ở Việt nam. Điều đáng kể là từ trước tới nay, Tổ Chức Y Tế Quốc Tế (WHO) chỉ trông cậy vào các báo cáo chính thức của các nước liên hệ để theo dơi bịnh. Sau vụ chính phủ Trung Quốc dấu diếm các trường hợp SARS, WHO đổi chính sách và quyết định sẽ thu thập tin tức dịch học tực tiếp từ mọi nguồn không chính thức (báo chí, truyền h́nh, internet..) và sẽ có biện pháp ngăn chặn dịch nhanh hơn.

Bịnh cúm: khó khăn sản xuất và phân phối thuốc chích ngừa

Trong những ngày cuối năm 2003 trong lúc một số nước sống về nghề du lịch Châu Á đang lo âu không biết SARS có trở lại làm tê liệt nền kinh tế th́ tại Mỹ lại đang lo lắng về bịnh cúm (influenza). Năm 2003-2004 bịnh cúm đến sớm , mới tháng mười hai mà đă lan ra trên hai chục tiểu ban. Một số nơi, trẻ con chết v́ cúm đă quá 40 trường hợp và là một chuyện ít khi xảy ra. Yếu tố thứ ba là strain virus cúm năm nay có hơi khác strain chứa trong thuốc chũng ngừa cho năm 2003-2004, cho nên dù được chích ngừa, tỉ suất được che chở khỏi bịnh cũng không cao lắm, có thể chỉ 50-60%.

Mùa 2004-2005, bịnh cúm lại đến trể, đến tháng 12 rồi mà chỉ có những trường hợp lẻ tẻ thôi. Ước mong năm nay không có dịch cúm lớn v́ năm 2004 thuốc chích ngừa cúm ở Mỹ giờ phút chót bị khan hiếm nặng do nhà máy sản xuất ở Anh bị đóng cửa đột ngột v́ thiếu chất lượng. Nhà máy này lại cung cấp gần một nửa cho nhu cầu nước Mỹ.Những người già trên 65 tuổi , những người bịnh kinh niên và trẻ em 6-59 tháng tuổi nằm trong diện ưu tiên được chích ngừa cúm. Tuy vậy cũng phải chờ đợi rất lâu, đôi khi c̣n gây ấu đă.Hiện nay chính phủ đang thu mua thêm ở một số nứôc khác, và mua thêm FluMist là một loại vaxin mới dùng virus sống, xịt vào mũi, khỏi phải chích. Đây là một tin mừng cho hăng thuốc đang bị lỗ lă v́ trước đây thuốc này rất ế, v́ mới tung ra thị trường, đắt tiền và ít người chịu dùng.

Năm 2006-2007, số lượng thuốc đầy đủ nhưng lại phân phối rất chậm trể và không đều đặn. Đấy là lúc thời b́nh thường. Nhiều người tự hỏi nếu tai biến xảy ra như đại dịch (pandemics)hay chiến tranh th́ sự phân phối thuốc có thực hiện được kịp thời hay không.

Cúm gà (avian flu)

Một mối lo âu khác về virus bịnh cúm là cúm gà (avian flu) do virus loại (strain) H5N1 từng  gây những vùng dịch (endemics) ở Việt nam và các nước lân cận và nay đă lan đến Châu Âu và nhất là Châu Phi, làm hang trăm triệu gà vịt bị chết hoặc phải tiêu diệt. Cúm gà không những giới hạn ở gà mà c̣n ở những loài khác như vịt nuôi (domestic ducks) tuy con vịt trông vẫn mạnh khoẻ, chúng vẫn thải ra virus tạo nên một nguồn "dự trữ" (reservoir) lây các gia cầm khác. B́nh thường strain virus gà chỉ nhiễm trùng gà vịt, tuy nhiên điều đáng ngại là trong một số trường hợp strain virus này lại nhảy qua gây bịnh ở người ta. Ở Việt nam từ năm 2003 đă có 42 người chết v́ cúm gà nhưng từ tháng 11 năm 2005 đến nay không có trường hợp người mắc cúm gà ở VN nữa. Hiện nay cúm gà đang bộc phát mạnh ở Indonesia và Nam Triều tiên (Đại Hàn). Tháng 11-2006 VN cũng loan báo sản xuất được 5000 liều thuốc chủng ngừa (vacxin) bịnh cúm gà cho người ta, nhưng thuốc này cần được thử trên người và kiểm định lại. Cho đến nay (12-2006) vẫn chưa có thuốc chũng ngừa cúm gà dành cho người ta được chấp nhận. Đặc biệt là ở Thái lan có trường hợp virus cúm truyền từ người lây qua người, tuy nhiên chỉ một hai trường hợp thôi. Strain từ gà vịt qua người này có thể trao đổi với những strain virus cúm khác của người và tạo nên những giống (strain) mới mà cơ thể người không có kinh nghiệm đề kháng.Hiện tượng này có thể là điểm khởi đầu cho một dịch lớn (pandemic) lan rộng toàn cầu và gây nhiều người chết v́ đa số nhân loại không có sức miễn nhiễm (immunity) sẳn có để đối phó.

Trong thế kỷ thứ 20, đă có 3 pandemics bịnh cúm: năm 1918, gọi là Spanish flu làm chết 675.000 người ở Mỹ nhưng 20% đến 40% dân số toàn cầu mắc bịnh và làm 50 triệu người chết ,1957 Asian flu( cúm Á châu) chết 70.000 người ở Mỹ và năm 1968 Hong Kong flu chết 43.000 người ở Mỹ. Người ta e ngại rằng thời điểm dịch cúm toàn cầu cũng đă gần kề và thủ phạm sẽ có thể là cúm gia cầm đang tung hoành tại Đông Nam Á.

Hiện tượng toàn cầu hóa : Bịnh lao kháng nhiều thuốc và Bịnh HIV/AIDS (SIDA)

Với hiện tượng toàn cầu hóa và giao thông giữa các nước Á  Châu và Mỹ càng ngày càng gia tăng, chúng ta chắc sẽ thấy hiện tượng những bịnh xảy ra ở cá nước này lây lan qua Mỹ hoặc ngược lại.Một trong những mối lo của ngành y tế là các bịnh lao kháng thuốc trụ sinh (multi-drug resistant tuberculosis), kháng với hai thuốc chính chữa lao là Rifampin và Isoniazid, càng ngày càng gia tăng nhất là ở Trung Quốc, Nga (Russia) và Ấn độ, và cólẽ luôn ở Việt nam. Ngoài ra, con số  chính thức người ở Việt nam bị nhiễm HIV nay (năm 2006) đă lên đến 250 000, và hàng ngàn người chết mỗi năm. Con số thực tế người nhiễm HIV chắc ao hơn nhiều. Với mức pḥng ngừa bịnh lỏng lẽo tại Việt nam, đây có thể là một nguy hiểm đáng kể cho một số người về giải trí ở quê nhà, cho vợ và cả con của họ.

Chính phủ Việt nam hiện nay h́nh như ư thức về mối đe dọa này và đang gia tăng giáo dục chuyên môn cho bác sĩ y tá về các phương pháp điều trị cũng như những biện pháp ngăn ngừa. Cũng có những biện pháp gia tăng ư thức của quần chúng về bịnh HIV, như giáo dục giới tính trong lớp học, phổ biến các bao cao su (condom). Chính phủ Bush cũng cho Việt nam ưu tiên trong ngân khoản trợ cấp giúp chống HIV/Aids và tháng 12 năm 2006 Cựu Tổng Thống Clinton ghé Việt nam để kư một thỏa thuận với Bộ Y Tê Việt Nam cung cấp thuốc chống virut để điều trị cho 800 trẻ em và 900 bà mẹ đang mang thai, cũng như huấn luyện cho nhân viên y tế. Tuy nhiên, do nạn măi dâm lan rộng, phong trào du lịch ào ạt , cùng với mức khác biệt gia tăng giữa người giàu và người nghèo làm cho người ta bị cám dỗ muốn làm ra tiền nhanh chóng bằng mọi phương tiện, khó nh́n thấy được một sự ngăn chặn hữu hiệu bịnh HIV/AIDS ở Việt nam trong tương lai gần.

Bịnh béo ph́, nếp sống mới  và vi trùng

Hiện nay trên toàn thế giớI, mỗi năm có chừng 3 triệu người chết v́ bịnh HIV/AIDS là một con số đáng sợ. Tuy nhiên,theo tin đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, số người chết do một bịnh khác ít được để ư tới cũng nhiều tương tự, đó là bịnh tiểu đường (diabetes mellitus). Bịnh tiểu đường càng ngày càng trở nên phổ biến hơn và những người trẻ tuổi càng ngày càng bị nhiều hơn. Những lư do chính là nếp sống nhàn hạ ít vận động thể lực, ăn uống quá nhiều, vượt mức nhu cầu b́nh thường của cơ thể, nên calories dư dă tích tụ lại dưới dạng những thớ mỡ dư thừa. Trong bịnh tiểu đường, cơ thể không sản xuất đủ insulin để tế bào tiêu thụ các thức tinh bột (carbohydrates), hoặc tế bào không đáp ứng với tác dụng của insulin ở mức thông thường nữa (insulin resistance). Hiện nay trên thế giớI, trên 200 triệu người mắc chứng tiểu đường .Với mức 15.6 % trẻ  em Mỹ  từ  12-19 tuôi bị  béo ph́  (obesity) , người lớn  mắc chứng “overweight” hoặc  béo ph́ chừng 65% và bịnh béo ph́ (theo National Health Examination Survey 1999-2002) ) ở trên 30% người lớn ở Mỹ, nguy cơ tiểu đường sẽ c̣n gia tăng thêm nữa. Ở Hànội cũng thế, trong hơn mười năm qua, tỷ số người tiểu đường đă tăng gấp đôi. Những hiện tượng như vậy xảy xa đồng loạt tại các dân tộc bản xứ (natives) ở New Zeland, Australia, các đảo Thái B́nh Dương (Pacific Islanders), và Dân Da Đỏ ở Châu Mỹ, nói chung là những dân tộc trước đây sống cuộc sống tuy nhọc nhằn nhưng thanh đạm về ăn uống, nay lại sống theo nếp sống an nhàn và thực phẩm nhiều calories của xă hội Tây Phương đem đến do ṭan cầu hóa. Đây là một tiếng chuông cảnh báo nhắc nhở chúng ta:

·         Thay đổi quan niệm cho rằng trẻ cần ăn thật nhiều cơm, càng to mập càng tốt

·         Khuyến khích và tạo điều kiện cho trẻ vận động hàng ngày (chừng một giờ một ngày)

·         Giới hạn th́ giờ xem tivi và ngồi trước computer (screen time) dù là để học bài.

Riêng về bịnh mập, béo ph́ (obesity), cuốu năm 2006 có một tin mới về khoa học đáng chú ư: có những nghiên cứu cho thấy một số vi trùng (tự nhiên) sống trong ruột người mập cũng như chuột mập khác những vi trùng sống trong ruột người hoặc chuột ốm. Trong ruột người mập có nhiều vi khuẩn Firmicutes hơn vi khuẩn Bacteroidetes. Lúc người đó giảm cân xuống th́ lượng Firmicutes cũng giảm, và loại kia Bactroidetes tăng lên. Những vi khuẩn Firmicutes này có khả năng khai thác nhiều calories hơn từ các loại thức ăn, với cùng một lượng thức ăn, cơ thể người mang nhiều vi khuẩn này sẽ được cung cấp nhiều năng lượng hơn và do đó dễ mập hơn.Ngoài những yếu tố giải thích bịnh mập như di truyền, nếp sống nhàn hạ, ăn uống quá độ, đây lại  thêm một  yếu tố nữa có thể giúp ích trong tương lai giải quyết về các dịch y tế công cọng này.( www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2006/12/20/AR2006122001271.html )

Thuốc Việt nam đem qua Mỹ và bịnh nhân Mỹ về Việtnam.

Sau hết, một hiện tượng đáng chú ư trong giới Việt nam chúng ta tại Mỹ. Đành rằng càng ngày càng có một số bịnh nhân đáng kể từ Việt nam qua Mỹ chữa những bịnh phức tạp , cần khoa học kỹ thuật Mỹ. Nhưng đáng kể và đáng ngạc nhiên là một số người Việt ở Mỹ lại về VN để chữa bịnh như giải phẩu thẩm mỹ, cắt amidan, chữa răng, mỗ mắt chữa cận thị, v́ rẻ hơn bên Mỹ nhiều. Chỉ có việc đem bầu về Việt nam để sanh th́ không nên thôi v́ vấn đề quốc tịch rắc rối.

Một số bịnh nhân mua thuốc Việt nam hoặc Châu Âu bán ỏ Việt Nam đem về Mỹ xài cho ḿnh hoặc cho con cái. Giới bác sĩ chúng ta ở đây có lẽ nên để ư tới những thuốc này. Báo chí nói nhiều về những thuốc giả đang lưu thong tại Đông Nam Á và ngày tại Mỹ.Một số thuốc khỏe như Coramine, thuốc nhét đít được người Việt và người Pháp quen dùng mà không có hoặc không bán tự do tại Mỹ, tuy nhiên v́ đa số bịnh nhân dùng bừa băi, không đúng chỉ định, một số trường hợp có thể nguy hiểm tính mạng nhất là thuốc dùng cho trẻ con có chứa aspirin hay salicylate có thể làm ói mửa nguy hiểm (hội chứng Reye). Cũng nên ghi nhận thêm là thuốc giả rất phổ biến ở những nước đang phát triển.

Nh́n kỹ, th́ việc này cũng nằm trong chiều hướng chung của thị trường thế giới hiện nay. chúng ta thấy các cơ sở y tế tư nhân ở Việtnam quảng cáo nhiều bằng Anh ngữ trên các website, và thật ra h́nh như một số ít cơ sở y tế trên quảng cáo có vẻ gần với tiêu chuẩn quốc tế hơn trước. Theo luật kinh tế thị trường, ở đâu làm rẻ th́ khách đến, và cũng như trong các lănh vực khác, sản phẩm từ Việt nam, trước đây là thủ công nghệ, tới cá catfish, tới hột điều, nay tới chuyên viên computer, các ca sĩ, có thể tới lúc các bác sĩ ở Việt nam bắt đầu có những khách hàng ngay tại Mỹ và hiện nay đang là bịnh nhân pḥng mạch ở đây. Tuy nhiên, như các báo của Việt nam tiết lộ, với kinh tế thị trường, các dịch vụ y tế ở VN có vẻ phát triển rất hỗn độn và cần những biện pháp chuẩn hóa (standardization) như ở các nước phát triển. Người tiêu thụ phải rất cẩn thận để tránh tiền mất tật mang.

Stem cell:vấn đề đức lư và thực tế trị liệu

Ngoài những vấn đề thực tế nêu trên, cũng nên nhắc đến một khía cạnh quan trọng của y khoa trong những năm tớI, mà hiện nay phần lớn nằm trong lănh vực khảo cứu. Đó là việc dùng những tế bào stem cell, những tế bào gốc là những tế bào chưa phân hoá, chưa chuyên môn hoá (undifferentiated,unspecialized cells), có khả năng phân hoá thành bất kỳ tế bào nào đă phân hoá , đă chuyên môn hóa (differentiated, specialized cell)  trong những bộ phận của cơ thể ( như hồng cầu trong máu, tế bào neuron thần kinh, tế bào xương..) Do đó stem cell có thể là nguồn sản xuất những tế bào thay thế các bộ phận đă hư hại hoặc thiếu sót từ lúc mới sanh ra. Ví dụ những người bị liệt tứ chi v́ tủy sống (spinal cord) bị đứt đoạn do tai nạn hoặc lúc sanh ra bị dị dạng ở tủy sống (như spina bifida), đang hy vọng sẽ có ngày người ta dùng stem cell nối tủy sống lành lặn lại làm cho họ đi lại được. Chỉ có một điều phần lớn các stem cell này lấy từ các phôi thai người (human embryo), thường là kết quả của các vụ phá thai hoặc những phôi thai được tạo nên trong ống nghiệm trong các y viện chữa hiếm muộn, bị dư thừa nên người ta đem hủy (giết) đi và trích ra tế bào c̣n non nớt của chúng . Một số stem cell khác lấy từ máu ở cuống rún (của thai nhi/cord blood ) hoặc cơ thể người trưởng thành như tủy sống, máu, ngay cả niêm mạc mũi (nasal mucosa) nhưng khó khăn hơn và những tế bào này không có khả năng “biến hóa “ bằng loại lấy từ phôi thai người. Viễn tượng phải tạo nên những phôi thai mới, rồi hủy chúng đi để trích stem cell cứu người khác là một viễn tượng vô nhân đạo (inhuman) dưới mắt rất nhiều người, nhất là ở Mỹ, nơi mà tín đồ một số tôn giáo như Thiên Chúa giáo,  tin bào thai đă có linh hồn ngay từ lúc thụ thai. Sự giằng co giữa những người muốn sớm có một phương pháp trị liệu cho chính ḿnh bằng mọi giá và những người muốn tôn trọng đời sống mọi phôi thai -dù ở giai đoạn phát triển nào- sẽ tiếp tục ảnh hưởng không những đến y học của Mỹ mà c̣n ảnh hưởng đến chính trị của xứ này trong những năm tới.

Kết luận

Chúng ta rời quê hương thấm thoát đă mấy chục năm, lúc thế giới c̣n trong thế lưỡng cực của chiến tranh lạnh, lúc chưa có CT, MRI , Sono, CD, DVD, Internet, website, cellular phone. Nay th́, thay v́ ở trong "cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha làm ra, cháu con ta ǵn giữ lấy", chúng ta lại sống trong cái làng thế giới (global village), trong cái tháp Babel, đủ màu da, đủ thứ tiếng. Các thay đổi trong ngành y tế chịu ảnh hưởng từ mọi mặt của sinh hoạt cộng đồng thế giới và riêng với người Việt hải ngoại, không ít th́ nhiều, bằng cách này hay cách khác, lắm lúc chúng ta lại được lạc về đường xưa lối cũ mà không hay.

 

Falls Church, Virginia

Cập nhật ngày 21  tháng 12 năm 2006